Mùa thu qua đi, gió đông thổi về, hơi lạnh buổi đêm len lén chui vào khe cửa mà lan tỏa. Lá cây trong Ngự Hoa viên dần rụng hết, để lại những cành cây khẳng khiu trơ trọi, cứ như là tâm tư con người vào những khi gần đất xa trời thì lại càng trở nên trần trụi hơn bao giờ hết.
Trái với lo ngại của những người ở nội đình, từ buổi yến tiệc Trung thu đến giờ đã hai tháng trôi qua, nhạc kỹ tên Tống Đình ấy vẫn an phận làm người ở Nhạc phủ, hoàng đế dù có ưa thích tiếng đàn của nàng đến mức nào thì cùng lắm chỉ là triệu đến đàn mấy lần rồi lại ban thưởng, cho lui. Tự quý phi có lúc hầu hoàng đế đọc sách ở Dưỡng Tâm điện thì cũng không thấy y có chút biểu hiện nào là chú ý tới Tống Đình mà chỉ im lặng nghe nhạc, sau đó bình phẩm mấy câu rồi thôi.
Văn Tước không biết tâm tư của Đế Dân đối với họ Tống kia như thế nào, nhưng thực cũng chẳng quan tâm cho mấy, chiều hôm đó ngồi uống trà với Đoan phi và Tĩnh phi ở đình nhỏ trong Ngự Hoa viên, nàng chỉ cười nhẹ một tiếng mà nói: “Hoàng thượng là vua một nước, lục cung ba ngàn giai lệ nào phải chuyện hiếm hoi. Chỉ cần người muốn thì nữ nhân xung quanh người liệu có thiếu? Đã gả vào cửa nhà vua rồi, trải qua trận kình phong nên ta đã thấu hiểu, đừng bao giờ nghĩ tới cái chuyện trái tim người đó sẽ thuộc về riêng ai. Càng nặng lòng sẽ lại càng chuốc lấy buồn bã mà thôi.”
Đoan phi ngắm những bụi hoa thạch thảo nhuộm sắc tím ở bồn hoa phía sau nơi Văn Tước ngồi, hàng chân mày nàng ấy hơi giãn ra, thư thả nói: “Sau này nhiều người cũng được, ít người cũng được, chỉ cần họ một lòng hầu hạ hoàng thượng, không làm chuyện trái luân thường đạo lý, không gây rối sinh sự, thì cũng chẳng cần phải nhọc tâm với họ làm gì.”
“Đoan phi nói rất đúng.” Tĩnh phi Kim Cơ Hoa khơi nắp chén trà bằng sứ bạch ngọc, tiếp: “Tình cảm con người sáng nắng chiều mưa, giữ một lúc chẳng giữ được lâu dài. Huống hồ, quý phi nương nương được hoàng thượng sủng ái, tần thiếp với Đoan phi đã ở phi vị rồi, thì ai lại ham giành giật cái sự nhất thời kia chứ.”
Văn Tước trông lên bầu trời ngắm ráng chiều buông, nhấp một ngụm trà, chợt than: “Không phải tự nhiên mà người đời gọi nội đình này là chốn thâm cung. Tình cảm quân vương, thật không thể duy trì được suốt đời suốt kiếp.” Nàng nhìn sang hai người Đoan phi và Tĩnh phi: “Phú quý vinh hoa ai dám nói là sẽ ở với ta cả đời, trượng phu trên vạn người thì lại càng không dám chắc. Nói đi nói lại, rốt cuộc việc có một đứa con, đối với những kẻ như chúng ta thì mới là chỗ dựa vững chãi tới già.”
“Tần thiếp sao lại không biết chứ,” Đoan phi khẽ thở dài, “Lúc Hinh vừa qua đời, gần như đêm nào tần thiếp cũng vì nhớ con mà khóc ướt cả gối. Mấy bận Triều nữ y tới thăm khám, đều nói là vì tần thiếp sinh con khi hãy còn quá trẻ nên thân thể bị tổn hại không ít, sợ là việc mang thai lần nữa sẽ khó khăn. Giờ tần thiếp chỉ biết ngày ngày niệm kinh hướng Phật, mong trời cao xót thương để Hinh lần nữa trở về bên tần thiếp.” Nàng dứt lời thì đã rưng rưng chực rơi lệ, không muốn khóc trước mặt Tự quý phi và Tĩnh phi cho nên cố gắng nén lại đau thương, khiến gương mặt đều vì thương tâm mà ửng đỏ.
Thời gian trôi đi hững hờ, dần làm vết thương lòng lành lại, nhưng sẹo hãy còn nguyên đó, không cách gì có thể xóa mờ.
“Người đi cũng đã đi rồi, người ở lại phải quên đi để sống tiếp.” Kim Cơ Hoa nhìn nàng, thờ ơ nói: “Đừng như Lịch quý tần giữ mãi cái vẻ ủ ê khiến cho hoàng thượng không vui. Đường con cái của cô ta về sau nếu cứ ngày nào cũng lấy nước mắt rửa mặt thì chỉ e là khó thành toàn.”
Văn Tước đưa tay ngắt một đóa hoa thạch thảo cài lên búi tóc của Tiền Vĩnh An, cười khuyên: “Bây giờ ngươi cứ lo nghỉ ngơi bồi dưỡng sức khỏe cho tốt trước đã. Y thuật của Triều Minh không tầm thường, sau này nhất định sẽ có cách thôi. Ngươi còn trẻ như thế, sợ gì không thể sinh chứ?”
“Tạ ơn quý phi nương nương đã quan tâm.” Tiền Vĩnh An chạm tay lên đóa thạch thảo, cúi đầu đáp: “Tần thiếp cũng hy vọng là vậy.”
Khi ấy mặt trời đã ngả về tây, ánh nắng cuối ngày đổ xuống tường ngói trong cung tạo nên một bức tranh rực rỡ hoa lệ. Cả ba nói chuyện phiếm với nhau vài ba câu nữa, uống hết chén trà rồi hai người Đoan phi, Tĩnh phi cáo từ hồi cung. Văn Tước cùng Tố Tâm đi dạo trong Ngự Hoa viên một lúc, đến tận khi ánh sáng cuối ngày tắt dần sau tán cây trồng bên hòn giả sơn thì mới quay trở về.
Lúc bấy giờ ở Dưỡng Tâm điện, Thái Mẫn đang cùng hoàng đế ngồi đánh cờ với Bắc Nguyệt vương Văn Hạo tại Khoái Tuyết hiên. Nơi này cùng với Thủy Lục điện, Nam Huân điện, Chiêu Hòa quán và Hiệp Hòa quán nằm quanh hai hồ Chân Bích, Chân Ngọc ở vườn Từ Cung – chốn trung gian chia tách tiền triều và hậu cung. Các vương công quý tộc mỗi khi có việc vào hoàng cung thì đều nghỉ chân lại ở các cung điện này.
“Nước đi này quả là không thể đi lại được rồi!” Đế Dân nhìn Thái Mẫn vừa bị Bắc Nguyệt vương chiếu tướng bèn bật cười, vỗ lên vai hắn: “Cũng không trách ngươi được. Đừng kể tới bây giờ, ngay cả khi trước tiên đế cũng từng khen tài đánh cờ của Hạo ca là khó ai bì kịp.”
“Hoàng thượng quá khen,” Bắc Nguyệt vương đáp: “Bổn vương như thế này nhưng ở vương phủ đánh cờ vẫn phải kém chính phi một bậc. Nàng ấy giống với Tự quý phi, thường ngày nếu không đọc sách thì cũng là bày biện bàn cờ ra để tự luyện một mình, lần nào đánh cờ với bổn vương thì cũng nhất định không nhận thua, đánh đi đánh lại khi nào thắng mới thôi. Nếu như nàng ấy đang không có thai thì hẳn cũng sẽ đòi theo bổn vương vào cung để tỷ thí với Thượng cung đại nhân một phen rồi.”
Chính phi của Bắc Nguyệt vương – Thịnh Trác Cơ hiện tại đã mang thai được năm tháng. Thái Mẫn nhớ tới nàng ta thì cũng thầm cảm kích, hắn dù tốt xấu gì thì vẫn là nam nhân, có những điều trong suy nghĩ nữ tử hắn không thể biết hoặc dù biết cũng không thể đồng cảm, huống hồ Trác Cơ còn thân thiết với Văn Tước nhiều năm như vậy cho nên việc khuyên nhủ Văn Tước để nàng ta làm là hợp lý hơn cả. Cũng may là ngày đó nhờ có lời của Trác Cơ nên Văn Tước cũng đã thông suốt, không khư khư ôm mãi cái chấp niệm buồn bã để thiệt hại thân mình nữa.
“Rốt cuộc cũng chỉ có Hạo ca là ưa thích nữ tử có tâm tình quyết tuyệt như Thịnh chính phi.” Đế Dân cầm lấy chén trà, cười nhẹ mà nói: “Riêng trẫm lại thấy hiếu thắng quá thì không phải là chuyện tốt, nhất là nữ nhân đối với trượng phu. Dù sao người đó cũng là chồng của mình, đã ăn đời ở kiếp với nhau thì nhường nhịn hắn một hai câu cũng có gì to tát đâu chứ?” Y nhấp một ngụm trà, cất tiếng khen: “Lâu rồi không uống Muộn Đình Thạch Hoa, hóa ra so với Tiên Nhai Thạch Hoa cũng nào đâu kém cạnh.”
“Kỳ thực người cũng như trà, mỗi người sẽ có một vị yêu thích khác nhau. Ví như hoàng thượng thích nữ tử hiền lành dịu ngoan, thì bổn vương lại thích kiểu người như Thịnh chính phi. Năm đó dạy hoàng thượng ở Huấn Học các, bổn vương có từng nói qua về chuyện này. Mặc cho thích hay không thích thì một khi đã trở thành phu thê, điều thiết yếu nhất chính là sự tôn trọng. Tình cảm là thứ dễ có dễ mất, chỉ có tương kính như tân mới có thể sống với nhau lâu dài. Nữ tử phải tôn trọng trượng phu và ngược lại, ta cũng không được khi dễ nàng ấy.” Bắc Nguyệt vương thoáng nhìn Đế Dân, trên miệng chỉ nở nụ cười nhẹ như sương khỏi, hỏi: “Sao vậy, có phải là Tự quý phi lại gây chuyện gì làm hoàng thượng khó xử không?”
“À, không có.” Hoàng đế lắc đầu, đáp: “Chỉ nhớ biểu tỷ trước đây so với Thịnh chính phi có khi còn nóng nảy ương ngạnh gấp bội, khiến trẫm lo nghĩ sợ biểu tỷ gặp phải rắc rối. Nhưng hiện tại biểu tỷ đã hiểu chuyện nên tính cách mềm mỏng ôn thuận hơn nhiều, trẫm cũng phần nào bớt phiền não.”
“Tự quý phi vì là muội muội duy nhất của bổn vương, lúc nhỏ được chiều chuộng nên khó tránh có chút ương bướng. Nếu như gả cho nhà bình thường còn có thể dung túng chút đỉnh, nhưng quý phi khi trước nhất định muốn nhập cung hầu hạ hoàng thượng, do vậy chuyện về sau nếu lành thì quý phi hưởng, hung thì quý phi cũng phải tự chịu.” Văn Hạo di chuyển con cờ của mình về phía trước, ung dung nói: “Bổn vương không bao giờ dám quên đi tôn ti trật tự. Bản thân trước là thần tử của hoàng thượng, sau mới là anh của quý phi, nửa đời về sau trong nội đình như thế nào cũng như cách mà ta đánh cờ, mỗi nước đi đều do quý phi tự quyết tự gánh, có sai lầm cũng không thể oán thán người khác nửa lời.”
Trái ngược với muội muội của mình, Bắc Nguyệt vương trước nay luôn là giữ vững khí độ, vui buồn gì cũng ít khi nào thể hiện ngoài mặt cho đối phương thấy, mà dẫu có để lộ thì cũng không rõ đó là thật hay diễn. Thái Mẫn dựa vào những gì xảy ra trước mắt thì rõ ràng Văn Hạo đang ngầm trách cứ quyết định vào cung của Văn Tước – điều này hẳn đã hình thành cái gai trong lòng y, nhổ thế nào cũng không sạch được. Văn Tước khi trước tính nết như thế nào, tại sao trải qua một quãng thời gian ngắn ngủi ở hoàng cung mà lại thay đổi hoàn toàn, từ một nữ tử ngang tàng trở nên bình tĩnh, tới nụ cười trên môi cũng xa lạ vô cùng. Trực giác của một người làm anh hẳn cũng đã cho Văn Hạo biết đã có gì đó xảy ra với nàng, Thịnh Trác Cơ có nói cho y biết chuyện của Tự quý phi hay không thì cũng không còn quan trọng nữa.
“Mấy năm nay biểu tỷ trưởng thành lên không ít, trở nên ôn thuận là điều đáng mừng.” Đế Dân nói, đoạn phất tay bảo tên nội giám đứng hầu ngoài cửa: “Nước Hãn dâng cống vật, ngoài hai vóc gấm thêu phượng cho hoàng hậu ra thì còn mấy xấp lụa quý, mang đến thưởng cho Tự quý phi đi.”
Thái Mẫn đẩy quân cờ của mình sang bên phải, cười nói: “Vương gia không phải lo. Quý phi nương nương từ lúc vào cung đến giờ đều được hoàng thượng sủng ái vô cùng. Mỗi khi chư hầu cống nạp thì số tặng phẩm Dực Khôn cung được ban cho vốn dĩ chỉ xếp sau Cảnh Nhân cung mà thôi.”
“Hoàng thượng thương yêu Tự quý phi, bổn vương cũng thực lấy làm mừng rỡ. Mẫu thân và phu thê bổn vương vẫn chỉ luôn mong quý phi ở trong cung hết lòng hầu hạ hoàng thượng, sớm khai chi tán diệp, kéo dài huyết mạch cho hoàng gia.” Bắc Nguyệt vương nhìn những xấp lụa được nội giám mang đi, có vẻ hài lòng mà nói, “Đối với phận nữ nhi thì làm như thế cũng đã là rạng danh nhà họ Văn lắm rồi.”
“Các nhà Hoàng, Văn, Kim đều có công giúp Lý triều lập nên đất nước, trẫm xem trọng người trong gia tộc là chuyện đương nhiên.” Đế Dân khách khí đáp xong thì quay sang, chợt nói với Thái Mẫn: “À, hay là ngươi thay mặt trẫm đem tặng phẩm tới cho biểu tỷ đi. Có ngươi tự đến Dực Khôn cung thì đó mới chính là thể diện trẫm dành cho biểu tỷ, tần phi khác không thể sánh bằng.”
“Vâng.” Thái Mẫn gật đầu, cúi người nói với Bắc Nguyệt vương: “Cũng xin cáo lỗi với vương gia, ta phải đi một chuyến rồi. Lần đánh cờ này xem như là ta nhận thua vậy.”
“Không sao, bổn vương ở lại đánh cờ với hoàng thượng, lần khác sẽ cùng ngươi tiếp tục phân cao thấp.” Bắc Nguyệt vương nói, “Mà, ở đây ta có thư nhà do mẫu thân và chính phi gửi cho Tự quý phi, không biết hoàng thượng có cho phép Thượng cung đại nhân giao chúng cho quý phi chăng?”
Đế Dân bật cười, xua tay: “Gì mà khách khí vậy, là người nhà với nhau mà, trẫm tiếc gì một hai phong thư chứ?” Y còn nói thêm: “Biểu tỷ là con gái cưng của Lữ Nhiên quận chúa, mà quận chúa lại là muội muội được tiên đế thương yêu, dĩ nhiên người muốn lúc nào ra vào hoàng cung thăm biểu tỷ đều được cả.”
“Hoàng thượng luôn luôn coi trọng vương gia.” Thái Mẫn nói, “Vậy vi thần không làm tốn nhiều thời gian nữa, xin cáo lui.” Đoạn hắn nhận lấy hai bức thư từ tay Bắc Nguyệt vương, cúi người thi lễ rồi rời đi. Hoàng đế nhìn theo bóng lưng của Thái Mẫn cho tới tận khi hắn đi khuất, bấy giờ chợt quay sang nói với Bắc Nguyệt vương: “Hạo ca, trẫm nhớ Lý triều chúng ta từ thuở lập quốc đến giờ, phi tần xuất thân cung nữ bậc nhì, bậc tam đều không phải là ít.”
“Quả đúng như vậy. Chỉ có điều những người đó một khi được phong làm tần phi thì xuất phát điểm đều phải ở tại vị trí quan nữ tử mà đi lên từ từ. Với lại, hoàng gia thường không xem trọng tần phi xuất thân cung nữ bậc tam.” Bắc Nguyệt vương đáp, “Dám hỏi hoàng thượng, người hẳn đã vừa mắt một cung nữ nào rồi chăng?”
“Cũng chưa chắc nữa.” Đế Dân không hề lảng tránh, chỉ cười mà nói: “Chỉ là thấy nàng ta dịu ngoan xinh đẹp, dù là cung nữ mà gia thế cũng không tồi.”
“Được trở thành tần phi của hoàng thượng chính là may mắn cả đời của cung nữ đó.” Ánh mắt Văn Hạo nhìn hoàng đế trong nửa giây đột nhiên trở nên sắc bén như dao, nhưng trước khi Đế Dân kịp nhận ra thì y đã thu liễm lại vẻ ôn thuận vốn có. “Chuyện hậu cung, bổn vương không dám luận bàn nhiều. Nếu hoàng thượng đã để ý tới nàng ta, chi bằng người nói với hoàng hậu, sắp xếp một chỗ tốt cho nàng ta là ổn nhất.”
Đế Dân gật đầu, cầm chén trà lên uống rồi quay lại đánh cờ, không nói tới chuyện kia nữa.
Văn Tước trở về Dực Khôn cung, ngồi đọc sách được một chút thì thân thể tự dưng cảm thấy hơi uể oải, mới nằm nghỉ trên sạp gỗ đàn hương trong hậu điện rồi ngủ lúc nào không hay. Đến khi nàng lơ mơ tỉnh dậy cũng đã vào giữa giờ Tuất một chút, ngoài cửa sổ vang lên tiếng gió thổi u u đem lại cảm giác lạnh lẽo. Tố Tâm thấy chủ tử đã thức giấc, liền không chậm trễ gọi Ẩn Nhi bưng vào một khay trà bánh, nàng biết Văn Tước vào buổi tối không thích ăn uống quá nhiều cho nên lần này cũng chỉ làm một dĩa bánh bột mạt trà uống cùng với sữa và trà xanh.
“Tay nghề của ngươi càng lúc càng tốt lên rồi. Mấy người ở nhà bếp nấu ăn dù có ngon thế nào cũng không bằng ngươi.” Văn Tước cắn một miếng bánh bột mạt trà, cười nói với Tố Tâm. Nàng ấy chỉ cúi đầu nhẹ bảo không dám, đoạn liếc mắt ra hiệu cho Ẩn Nhi lui đi.
Hành lang hậu điện Dực Khôn cung bấy giờ hoàn toàn vắng lặng, Tố Tâm bước lại mở hộc tủ đặt cạnh sập, lấy ra một tờ giấy được gấp nhiều lớp, đưa cho Văn Tước mà nhỏ giọng nói: “Tiểu thư, ban nãy lúc người đang ngủ thì có Thượng cung đại nhân ghé qua đưa tặng phẩm của hoàng thượng là mấy xấp lụa của nước Hãn tiến cống. Bắc Nguyệt vương hôm nay có dịp vào cung, quận chúa và Thịnh chính phi nhân đó nhờ ngài ấy giao cho Thượng cung đại nhân trao thư nhà, chính phi còn có ngầm gửi mẩu tin này đến người.”
“Trác Cơ đó giờ làm cái gì cũng quả quyết, nhanh nhẹn hơn đám người trong cung này nhiều.” Văn Tước đón lấy tờ giấy kia mà mở ra đọc. Nàng và Thịnh Trác Cơ là khuê mật từ thuở nhỏ, thư từ viết cho nhau đều sử dụng rất nhiều ký hiệu bí mật mà chỉ cả hai biết, do đó tờ giấy này kể cả khi rơi vào tay người khác thì bọn họ cũng khó mà hiểu được ý tứ bên trong. Lần này Trác Cơ giúp đỡ nàng điều tra một số việc, người do nàng ta phái đi chỉ chưa đầy hai tháng mà đã hoàn thành nhiệm vụ rồi.
Đọc xong nội dung viết trong tờ giấy, gương mặt Văn Tước thoáng có chút thất sắc, tuy vậy rất nhanh đã thu lại vẻ điềm nhiên. Nàng vo tròn tờ giấy rồi vứt vào chậu than sưởi ấm, chống tay lên tay vịn sập gỗ mà nhìn nó bị lửa cuốn lại thành tro tàn, “Đúng là ngày đó mắt cao quá trán, không thấy được hiểm họa dưới chân.” Văn Tước lắc đầu cười, tiếng cười này của nàng vang lên giữa đêm mùa đông âm u nghe vô cùng quỷ dị, càng khiến người ta cảm thấy lạnh lẽo đến thấu xương, “Thôi thì coi như là bài học để đời, dù sao ta được khai trí như ngày hôm nay, cũng phải cám ơn bọn họ một tiếng!
Đêm ngày hai mươi sáu tháng mười năm Thanh Đức thứ tư, ngự tiền cung nữ Ngô Thái Vân được hoàng đế sủng hạnh tại điện Dưỡng Tâm. Đúng một tuần sau, tức ngày hai tháng mười một năm Thanh Đức thứ tư, hoàng đế lấy lí do thứ nhất Thái Vân là cung nữ ngự tiền, hầu hạ thánh giá hết lòng chu đáo, thứ hai dựa vào xuất thân là chị ruột của Thượng cung Đại quan Thái Mẫn, cho nên phá lệ phong làm tòng tam phẩm thường tại, sống tại Lê Ẩn viện năm xưa. Hoàng đế lại ban cho hai tỷ đệ nàng họ Ngô, nên từ đó nàng trở thành Ngô thường tại, còn hắn cũng được gọi là Thượng cung Ngô đại nhân.
Buổi đêm của nữ tử trong chốn nội đình, kể cả khi có được ân sủng của hoàng đế hay không thì cũng đều không tránh khỏi cảm giác vừa dài vừa lạnh buốt thấu tâm can. Người ta hoặc là giữ sự cô đơn bên cạnh đến khi quen dần với nó, hoặc là cố tìm thú vui khuê các, kết giao với những nữ tử khác để khỏa lấp nỗi buồn, hoặc là dùng máu kẻ khác để sưởi ấm cho chính mình – dù rất mạo hiểm nhưng nếu thành công thì đây chính là cách tốt nhất giúp bản thân vượt qua những đêm trường giá lạnh.
Có những người vì bất đắc dĩ, hoặc là tự ngay trong bản chất đã nảy sinh tạp niệm mới chọn cách này. Cũng có những người dù đến xương tan thịt nát vẫn nhất định không để lay động sơ tâm.
Bước vào hoàng cung có thể không phải do bản thân quyết định, nhưng tồn tại trong nơi này như thế nào thì đều là tự mình chọn lấy.