1
Anh đã nghĩ rằng: Liệu một con người có thể có được mức giới hạn tới đâu trong sự dũng cảm? Và liệu, một người dũng cảm, cứng rắn có thật sự chưa bao giờ khóc hay chưa? Hẳn là rồi, hoặc chưa; không ai biết được câu trả lời cả. Như khi ta dùng một ít cocain hoặc cần sa (hoặc sản xuất ra chúng) tại một quán bar và bị DEA [1] truy bắt. Không ai biết được lũ người đó – dù dũng cảm với việc sử dụng chất cấm – nhưng họ còn dũng cảm khi đứng trước nguy cơ bị phạt tù hoặc đưa vào trại cải tạo hay không.
[1] Cục Quản Lý Thực Thi Ma Túy.
Peter Walker đang ngồi tại quán cà phê Main Street, gần Xa lộ Liên bang số 80 và 90. Quay về phía bên phải đứng ngay mặt tiền của quán, rẽ phải từ giao lộ ngã tư giữa đường E Main và đường South là có thể thấy xa lộ phía bên trên tựa như một cây cầu dài với những lớp bê tông nứt nẻ. Trời đã trở sáng vào ngày thứ 20 của tháng Mười Hai, và đoán chắc là khoảng chập tối, anh sẽ về tới Milton để đối mặt với bất cứ mối đe doạ nào đã quay trở lại đấy. Một trong những sự kiện kinh hoàng của quá khứ, như một con quái vật ký sinh đang cắm rễ và tàn phá tâm trí của anh, một người đàn ông trẻ thành đạt với công việc ca hát tại quán bar có thể dễ dàng hái ra tiền bằng với tài năng của bản thân mình.
Sau khi ăn xong, anh sẽ không thể quay trở lại con đường cũ để ra xa lộ vì nó khá xa, vậy nên trong lúc chờ đợi món ăn của mình được mang ra bàn, anh lấy một tấm bản đồ ra và tra tuyến đường E Main bên ngoài mặt tiền của quán. Peter di ngón tay rẽ sang đường Lake tại giao lộ ngã tư bao gồm: đường South, W Main, E Main và Lake; chạy thẳng rồi vượt qua gầm cầu của xa lộ 90 và 80, sau đó anh sẽ vào Ceylon Rd, tiếp tục chạy thẳng. Đó là một con đường dài và có nhiều ngã rẽ. Sau đó, Peter sẽ phải lựa chọn giữa việc đi qua các con phố và thị trấn, hoặc gia nhập lại vào xa lộ 90 để hướng về Milton. Anh quyết định sẽ quay trở lại xa lộ 90, vì nó an toàn, và anh cũng có thể tăng tốc trên xa lộ để có thể về thị trấn nhanh hơn.
Một vài quyết định nhanh chóng đôi lúc sẽ tốt hơn. Như việc ta phải chặt đầu con bò hoặc thọc bụng nó trước. Nếu chặt đầu, nó sẽ không thể kêu thét; nếu thọc bụng, hẳn là nếu không có thuốc ngủ thì người làm thịt và những người xung quanh sẽ phải nghe tiếng rống kinh hoàng vang lên. Anh lựa chọn một tuyến đường vừa nhanh, vừa an toàn so với việc phải liên tục lái qua các ngã rẽ có nguy cơ những con đường tại các thị trấn đó ngập tràn trong tuyết.
Peter nghiêng đầu hài lòng, rồi anh xếp tấm bản đồ lại làm hai, làm tư, làm tám – rồi cất vào túi quần. Với bất kỳ điều gì trong những ngày này cũng khiến anh cảm thấy thật nhạy cảm. Peter đã muộn, và trước đó anh cũng đoán chắc là như thế, anh đã muộn mất gần như một ngày đường và phải ở lại trọ ven đường để chờ tuyết được xúc khỏi đường anh chạy. Có những tuyến xa lộ ngập tuyết và phải chờ xe xúc tuyết dọn xong thì mới có thể đi, hoặc xe anh sẽ chết máy sau khi cố lái qua một cách ngu ngốc – như những gì anh nghĩ, hẳn là tình huống vẫn sẽ lặp lại.
Một vài ký ức nhẹ nhàng lướt qua khi anh đứng trước những con người hâm mộ: “Tôi là một nhạc sĩ kiêm nhạc công. Tôi có thể hát và cũng có thể chơi nhạc cụ để dành tặng cho các bạn một vài câu chuyện ẩn sau những ca từ. Tôi có thể sáng tác, và những ca từ – như đã nói – phản ánh lên một vài câu chuyện của tôi. Đối với những ai có niềm đam mê về âm nhạc và làm một tác giả viết nhạc, người đó hãy trải nghiệm những điều thực tế đi rồi hãy viết chúng. Như chính anh bạn của tôi vậy.”
“Bạn của anh?” Một cô bé mũm mĩm nhướn lông mày, nụ cười vẫn ở trên môi.
“Đúng thế, là bạn của tôi. Chắc các bạn nào có thói quen đọc sách thì cũng sẽ biết tới người đó. Anh ta là Thomas White, có bút danh Tommy Stranger. Tôi nói tại đây không phải để hưởng cái sự nổi tiếng của anh ta; vì tôi và anh ấy khác lĩnh vực nghệ thuật với nhau. Nhưng, tôi muốn khẳng định rằng, tôi và anh ta là bạn của nhau.”
Cha cha cha dah dah dah!
Sự kinh hoàng trong từng ngóc ngách
Bóng tối thẳm sâu lê bước giữa đêm đen
Ánh trăng dẫn lối mở đường thông lộ
Dư vị oán than, quang phổ bạt ngàn
Có lần, Peter có đến những buổi thuyết trình của Thomas White tại một trường đại học trong một thị trấn không quá lớn mà anh không nhớ tên (có lẽ nó nằm ở đâu đó thuộc các bang Miền Núi Phía Tây – anh nhớ là tại Colorado) nhờ một cách tình cờ khi thấy tờ bướm xung quanh thị trấn trong lúc anh đi lưu diễn tại đấy và đang trong thời gian dựng sân khấu. Anh và Thomas đã có nói chuyện với nhau: những câu chuyện cũ rích của tuổi thơ và cuộc sống hiện tại. Anh cũng biết rằng Thomas đã có vợ và hiện đang sống cùng nhau tại New York. Hạnh phúc ghê nơi luôn! Không biết cậu ta có bị Emma gọi vào điện thoại như anh không. Anh nghĩ là có, chắc chắn có!
Peter thở dài, một mảng ký ức về cuộc nói chuyện của anh và Thomas chạy như một cuốn băng trong đầu. Sai sót từ nào ư? Không. Khung cảnh? Có thể có chút sai sót. Anh nghĩ người phụ nữ ngồi sau lưng Thomas là tóc vàng chứ không phải tóc nâu. Buồn cười thật đấy! Anh cười khùng khục với trò đùa của bản thân trước khi lặng đi vì nội dung của cuộc trò chuyện.
“Mình chắc rằng Nolan đã không còn giận cậu từ lâu. Vì cậu ta hẳn là sẽ không có thời gian để giận vì còn bận làm một số việc khác. Để làm một Nolan Goodweather thật không dễ đâu.” Thomas đã cười với Peter. “Cậu ta giờ đang học lên Tiến Sĩ tại Đại Học Hostolik tại phía Bắc bang Penn đấy.”
“Cậu ta vẫn luôn ở gần Milton nhỉ.” Peter nhận xét, rồi anh tiếp tục. “Mình không nghĩ như cậu. Mình đã có những lời nói không hay ho gì. Trông mình lúc đó như một con chó sủa bậy vậy. Mình đáng ra không nên nói những lời như thế. Mình...”
“Được rồi, giải quyết triệt để vấn đề đó đi. Rằng cậu sẽ phải tự tha thứ cho bản thân. Có như thế thì mới đủ lý do để Nolan có thể tha thứ cho cậu. Cậu ta không phải là người nhỏ mọn, ích kỷ và thù dai. Cậu ta là Nolan Goodweather, một người anh trai đang tuyệt vọng tìm kiếm em trai của mình, và việc đó thì bất khả thi. Cậu ta biết, nhưng vẫn cố chấp làm một cách ngu ngốc. Cậu đã thốt lên lời lẽ không tôn trọng về việc đó, Peter. Nhưng nếu cậu thực sự muốn xin lỗi, mình nghĩ cậu cần thêm chút thành tâm với việc đồng ý sẽ giúp Nolan nếu có bất cứ việc gì mà cậu ta cần, hẳn là cậu ta không chỉ bỏ qua mọi chuyện, mà còn cảm kích và nhận sự ân huệ giúp đỡ này từ cậu như một món nợ cần trả.”
Peter lôi những dòng suy nghĩ đó ra khỏi đầu và thở dài.
Thật kinh khủng khi nghĩ tới việc anh sẽ trễ nải thời gian. Cái áo khoác màu xanh biển giúp thân nhiệt anh trở nên ấm áp, vượt quá thân nhiệt bình thường một chút ở 37 độ rưỡi, và trông có vẻ, nó sẽ còn giúp ít được cho anh khá lâu nữa. Thật buồn cười với sự kết hợp giữa cái nóng ấm áp từ bên trong và cái lạnh được truyền từ ngoài vào qua các lớp da thịt phơi trần như mặt của anh, cổ chân thò ra từ đôi Oxford đen dưới chân anh và các ngón tay lẫn bàn tay không được đeo bao tay len. Anh đã không chuẩn bị gì để có một chuyến đi dài từ phía Tây của Hoa Kỳ dài cho tới phía Đông. Một chuyến đi không dễ dàng gì trong mùa đông lạnh giá thế này. Anh có cảm tưởng như, mùa Đông năm nay lạnh hơn trong tất cả những năm từ cái lúc anh có mặt trên đời. Cái lạnh như một chiếc lưỡi, liếm qua da thịt anh và theo đó, nó luồng lách qua ống tay áo, cổ áo và ống quần dưới chân để tấn công vào cơ thể bên trong như một con virus ác tính với mong muốn giết thật nhanh vật chủ của nó bằng cái cách tàn ác và dày vò.
Peter nhét tấm bản đồ vào túi quần, như thể thôi thúc anh kéo nó ra một lần nữa để lựa chọn lại chính xác tuyến đường cần di chuyển. Nhưng bộ não lạnh cóng, gần như tê liệt của Peter lại phản đối, rằng đây là con đường tốt nhất và an toàn nhất; một lần nữa, với sự la thét trong tâm trí để thể hiện rằng tốt hơn hết, nên đi theo cái quyết định của sự logic từ bản thân Peter, rằng anh đã lựa chọn đúng và tựa như hành động táo bạo của diễn viên nữ Margot Robbie khi cô táng thẳng vào mặt Leonardo Dicaprio trong buổi thử vai – trong lúc cô đang nhập vai quá độ – của bộ phim The Wolf Of Wall Street và mắng chửi Dicaprio.
Để tránh suy nghĩ về cái lạnh và những điều làm dao động sự lựa chọn của mình, anh ngáp dài một cái vì mệt mỏi (đêm hôm qua Peter chỉ ngủ có hai tiếng, rồi tiếp tục lái xe) và tận hưởng bầu không khí lẫn sự thoải mái của quán cà phê. Tiếng leng keng từ dao nĩa gõ lên dĩa ở phía bên kia bàn, bắt nguồn từ một đứa bé gái khoảng hai tuổi, và mẹ của con bé chỉ mỉm cười, tặc lưỡi và lấy chúng lại để tránh làm ồn; ba người cạnh quầy đang ăn những dĩa bánh crepe, một trong số họ có thân hình quá khổ – cực quá khổ – nhưng lại trông rất điềm đạm trong lúc ăn – họ đều là những con người đã vượt quá tuổi bốn mươi, anh đoán vậy. Peter mỉm cười với tuổi tác của mình, và anh sẽ tận hưởng nó một cách triệt để nếu anh còn sống. Anh phải sống; rằng, anh sẽ không để việc bị chia tay bạn gái là nguyên nhân đã dẫn đến việc anh tìm đến con đường tự sát một cách ngẫu nhiên; rằng nguy cơ anh chết nếu đồng ý quay lại Milton là rất cao, hơn so với việc trúng xổ số giải tám của giải thưởng Powerball, và hẳn là cao tới mức kỷ lục nếu đem so sánh với việc trúng giải Jackpot[2]. Peter tựa lưng vào lưng ghế, mắt nheo lại đúng lúc cô phục vụ mặc một cái váy nhân viên màu hồng dài qua đầu gối, mang tạp đề trắng hình hoa orchid – với ba cánh hoa xoè ra, và phần những cánh hoa chụm lại tựa như ống loa – bước tới, đặt một cái dĩa cũng với tách nhỏ nhắn xuống, rồi rót cà phê từ chiếc bình giữ nhiệt Tiger PRQ-A100 màu trắng. Tiếng nước lọc tọc rót vào ly nghe thật ấm cúng, tựa như tiếng mưa rơi trên mái hiên hoặc trần nhà trong trọ của Peter khi anh ở Portland. Anh cảm thấy có thiện cảm với âm thanh này của nước; thế nhưng cũng chỉ có vậy, thực ra, anh lại yêu thích tiếng nước chảy từ các con suối trong rừng, hoặc những con suối chạy qua các thị trấn – cụ thể là con sông Ternon.
[2] Jackpot: Giải đặc biệt.
Anh lấy ra một bao thuốc lá Marlboro, vừa định châm lửa bằng bật lửa Zippo bạc thì thấy được tấm bảng cấm hút thuốc đặt ở quầy, cạnh bên là những kệ gỗ đặt mấy cái cốc nhựa. Cơn khó chịu nhanh chóng kéo tới, như thể chúng táng vào mặt anh liên hồi. Và rồi, Peter miễn cưỡng nhét điếu thuốc lá một cách bực bội vào lại trong bao trong khi cái bật lửa vẫn nằm trên tay anh, được giữ chặt bằng những ngón tay và mặt dưới lẫn cạnh của nó nằm gọn trong bề mặt da. Cái bật lửa được đùa nghịch với tiếng lạch cạch vang lên mỗi khi anh mở ra, đóng vào bằng cách lắc nhẹ nó kèm sự trợ giúp từ ngón tay cái, tạo thành một vòng tuần hoàn của tiếng lạch cạch khiến cho tâm trạng của anh đột nhiên dễ chịu và vui vẻ một cách kỳ lạ.
Tách cà phê trước mặt anh đột nhiên có một sự cuốn hút lạ thường với làn khói tựa như sương mù của buổi sáng sớm uốn éo thành một cây cột ẻo lả, buồn cười. Thu hút. Anh nắm lấy cái muỗng bé tí đặt trên chiếc dĩa đựng tách cà phê, nhẹ nhàng thả xuống bề mặt nước cà phê đen và khuấy động nó thành vòng xoáy tựa như những vòng xoáy từ con suối của quá khứ xoay vòng quanh mấy viên đá lớn ngoi lên từ bên dưới đáy sông như cái đầu bóng của mấy chiếc tàu ngầm – trừ việc những viên đá không có màu đen.
Đột nhiên có tiếng khóc thúc thít khiến cho anh giật mình, buông cái muỗng xuống và nó vẫn xoay theo vòng xoáy nước cà phê nóng ấm. Anh tưởng tượng ư? Hay anh đã trở nên điên dại rồi? Ôi Chúa ơi! Anh đã tưởng tượng. Hẳn là thế rồi, vì xung quanh đây chỉ có đứa bé gái đang được mẹ lau miệng ở bên kia sau khi ăn xong món bánh ngọt (trông con bé thật thích thú với món ăn, không như một đứa trẻ vừa khóc) và một đứa trẻ khác nữa nằm trên một cái ghế bành dài thì đang ngủ ngon lành sau khi bú sữa xong. Mẹ thằng bé đang ăn một dĩa bánh sữa chiên tươi có nước sốt trong một cái chén nhỏ hình vuông rộng vành, mắt nhìn vào điện thoại và xem chăm chú cái gì đó.
Peter bán tính bán nghi. Anh run rẩy chạm lấy cái muỗng nằm ở thành tách cà phê và cầm nó lên. Những giọt cà phê đen nhễu xuống dĩa một cách chậm rãi. Peter vẫn cố gắng lắng nghe, một cách chăm chú và cảm thấy sự lố bịch toát lên từ gương mặt ngu ngốc mà anh đang thể hiện: bất ngờ và thương cảm. Anh cảm thấy đau xót ở lồng ngực khi nghe âm thanh của tiếng khóc đó: Mẹ... cha... hai người đừng làm thế! Làm ơn, hãy dừng lại; làm ơn, dừng lại đi; vì con, hãy vì con mà dừng lại đi. Tiếng khóc lớn dần, như thể đã trở thành tiếng thét đau đớn, khiến cho Peter cảm thấy nghẹt thở và nhói lòng. Anh chau mày, một giọt nước mắt đột nhiên chảy ra. Tay anh run rẩy như thể mất kiểm soát. Nó buông thỏng xuống và vịn trên đùi. Run rẩy. Bóp chặt. Peter cảm thấy buồn nôn với sự chua loét ở miệng.
Tiếng khóc đã dừng lại. Peter khẽ cười đau khổ dù chẳng có bất cứ nguyên nhân gì. Hoặc có vẻ thời gian là một kẻ tàn ác đã cướp đi vô số những ký ức vụn vặt của anh, chừa lại cho anh cái thứ được gọi là sự dày vò không-có-nguyên-nhân hoặc nguyên-nhân-ẩn-giấu-phía-sau-nó. Anh cảm thấy Milton, thị trấn như thể xuất hiện thành hình thù kỳ quái trước mặt anh, ngồi tại đó và giơ tay ra, đứng dậy, đấm cho anh một cú thật đau với những thứ khác: thư viện IIK. Trường học Milton. Công viên Littlegarden. Cầu Subway. Con sông Huffle. Đỉnh ngọn đồi Torabob. Rừng Ternon. Rừng Busklunkey. Những ngôi nhà của những người bạn mà anh đã quen. Người cha đã chết sau một tai nạn không đáng có vì nhiễm trùng (ông đã bất cẩn làm cho cổ tay mình bị cắt đôi trong khi đang dùng cưa cắt một khúc gỗ ở xưởng gỗ hồi anh còn nhỏ). Trung tâm thị trấn Milton. Trận chiến tại ven sông bằng nắm đấm và những viên đá (nếu không tính cả con dao Kershaw bằng bạc). Nhà máy từ thượng nguồn con suối trong rừng Ternon.
Hồ Haya ở thượng nguồn Ternon, điểm tập trung và tản ra của con sông Ternon và sông Huffle.
Peter bị cuốn vào dòng suy nghĩ trầm tư tới nỗi, anh không nghĩ rằng bản thân đang nằm giữa ranh giới của sự tỉnh táo và giấc ngủ kéo tới. Đôi mắt anh nhắm lại, đầu gục xuống gần mặt bàn và bất động tựa như một xác chết. Anh ngủ không đủ giấc.
Nhân viên nữ nhìn cơ thể chàng trai đang ngủ úp mặt trên bàn. Tóc anh ta không quá dài, có màu nâu hơi đậm, trông không tự nhiên và như thể đó là do thuốc nhuộm. Cô nhìn ra được chân tóc đen của anh chàng. Anh ta đeo khuyên tai có mặt hình thánh giá treo lủng lẳng, chỉ một bên tai. Anh mang quần jean màu xanh, một tấm giấy ló ra từ túi. Bên trong chiếc áo lạnh jean xanh biển của anh là một cái áo phông trắng ló ra ở cổ áo jean. Cô không đoán, cũng không cố nghĩ xem cái áo đó có in hình gì hay không. Cô nhìn đôi chân, theo tầm nhìn của cô, chúng đan chéo vào nhau với một chân ở dưới sàn của đáy, gập lại ở đầu gối; chân kia gần như duỗi thẳng một cách thoải mái.
Cô đưa tay, vỗ nhẹ lên vai của chàng trai này.
Anh ta nheo mắt ngó nghiêng, rồi đôi mắt dán vào cô.
Hai người nhìn nhau. Trông thật kỳ cục.
“Có chuyện gì không? Cô là ai?” Peter nhìn cái người trước mặt mình và nheo mắt, khi thấy được bộ quần áo của cô ta, anh mới mở to mắt thêm ra, mồm chữ o ngạc nhiên. “Xin thứ lỗi, dường như tôi vừa ngủ quên. Hôm qua tôi có một đêm không đủ giấc.” Giọng của anh có chút không tỉnh táo, nhưng khá hối lỗi và lịch thiệp, trái ngược với vẻ ngoài nổi loạn mà anh đang mang.
“À không sao,” Cô nhân viên quán nói. Rồi cô ta đứng thẳng, ngó qua ngó lại quán cà phê một cách hậu đậu rồi quay trở lại với anh, “Buổi sáng đôi khi cũng có vài người giống anh. Quên nữa, bánh sandwich cá ngừ mà anh gọi đã có rồi. Hy vọng anh không phiền vì sự chậm trễ này.”
“Không có gì đâu. Tôi cũng không cần gấp lắm.”
Theo lộ trình, anh sẽ trở về Milton trong chiều nay. Đúng như anh nói, chẳng gấp mấy hồi.
Peter nghĩ: Chắc chắn là thế!
“Vậy tôi đi đây.” Cô nhân viên gật đầu trịnh trọng, dù có thể cô ta lớn hơn anh nhiều, rồi bỏ đi vào trong.
Peter lại bắt đầu thẫn thờ như người mất hồn. Mắt anh đăm chiêu nhìn xuống ly cà phê đen cạnh bên cánh tay mình đang mặc lớp tay áo jean màu xanh biển, bất giác thở dài. Đôi mắt anh hướng ra ngoài kia. Từ bên trên, những hạt tuyết đã đổ xuống nhẹ nhàng trong cơn gió lạnh lẽo của mùa đông. Anh đột nhiên cảm thấy cô đơn. Cùng với đó, tiếng róc rách của tiếng suối một lần nữa chảy trong tai anh.
Đó chỉ là ảo giác, nhưng rất thật.
Không, đó không phải ảo giác. Đó là hồi ức. Là thứ cấu thành nên tương lai của một con người.