Tiếng thét!
Tiếng thét của ai đó.
Tôi tự hỏi đó có phải là tiếng thét của tôi không thì một loạt những hình ảnh bất ngờ chạy dọc qua tâm trí yếu ớt của một lão già. Cánh tay yếu ớt đó của tôi đã lành hẳn sau vài tháng, nhưng vết thương lòng thì không bao giờ. Tôi rời giường và tự vệ sinh răng miệng mình xong. Thường thì người già thuộc loại như tôi không thích tắm vào buổi sáng, đặc biệt là gần mùa đông, cái mùa mà mù sương ẩm ướt luôn bao quanh lấy khắp các con đường trên thị trấn tồi tàn, ảm đạm trước mắt tôi.
Sau khi khoác áo khoác nâu vào, đội cái mũ len màu đen ôm sát quả đầu bóng lưỡng, chỉ còn mấy nhúm đen xung quanh khoảnh đất hói của mình, tôi rời khỏi ngôi nhà thân thương ở đường Camptown – thuộc thị trấn Bardstown, Kentucky. Tôi đi xuôi xuống hướng Nam thì gặp bà lão Jennifer McClenahan bước ra từ August Ct[1] với cái túi Croc đeo chéo vai trông khá sành điệu – tôi dành từ sành điệu cho cái túi vì bộ áo vải lanh màu da cam hé ra ở cổ của cái áo khoác ca rô Cropped Wool thật giản dị. Nhưng thực tế, chúng khá bắt nhịp với nhau thành một bản hoà âm dễ thu hút. Bà ấy luôn thế; trông như một chú chim già nhưng vẫn còn đủ sức cho những cú vỗ cánh mạnh mẽ.
[1] Viết tắt của Court (Dịch sát nghĩa: Toà Án): Được dùng để chỉ những con đường kết thúc bằng một khoảng đất tròn hoặc đường vòng.
“Ôi, chào ông, Milford!” Bà ấy vẫy tay về phía tôi, mắt nhìn một chiếc Cadillac đời 1959 màu đen lướt ngang qua đường rồi bước sang. “Không ngờ lại gặp ông vào giờ này đấy.” Bà ấy cười, một nụ cười ngọt ngào túm tím khiến tôi cũng phải cười lây. Có thể nói, tôi đã tìm lại được mảnh ghép còn thiếu sau khi đã đánh mất Celica Williams vào tay căn bệnh tử thần của-người-cao-tuổi. Tôi muốn cuộc sống giản dị và êm đẹp này tiếp diễn và giữ cho những ký ức kinh hoàng kia chỉ nằm trong ký ức thẳm sâu dưới tầng tầng lớp lớp những ngăn kéo bám bụi của mê cung bộ nhớ. Nó sẽ bị chôn vùi dưới đó cho tới khi vùng dậy, và tôi sẽ đáp trả nó bằng cách đưa vào những trang giấy. Phần truyện ngắn đó của tôi sẽ mau chóng hoàn thành và tôi sẽ gửi cho tờ báo Hạt Nelson. Tôi không mong mình sẽ trở thành một Stith Thompson thứ hai, người mà đã sưu tầm những câu chuyện nhân gian và viết nên cuốn Motif-Index of Folk-Literature xuất bản năm 1955. Nhưng cái tôi muốn là để cho nhiều người biết được sự thật trong năm đó, cái năm kinh hoàng đã ép tôi phải chịu đựng những mối nguy hại của việc trầm cảm sau thảm kịch.
“Chào bà, McClenahan.” Tôi nói, “Tôi vừa tính ra cửa hàng tạp phẩm.”
“Ồ, hay chúng ta đi ăn chút gì không? Khoảng...” Bà kéo dài giọng và nhìn đồng hồ ở cổ tay trái, rồi ngước lên, “bảy giờ họ mới mở cửa. Giờ mới có sáu giờ rưỡi. Huddle House thì sao nhỉ? Nó nằm ở Đại Lộ John Rowan. Ăn xong rồi bước chừng vài bước chân là tới cửa hàng rồi.”
“Cũng hay đấy.” Tôi mỉm cười với bà thì bà ấy liền quay mặt chỗ khác. Tôi tưởng tượng ra cảnh Jennifer McClenahan đang đỏ mặt khi bà ấy áp lòng bàn tay lên má một cách ngập ngừng. “Chúng ta đi chứ?”
“À vâng, xin lỗi,” Bà nhìn cái bụng phệ của tôi, rồi ngước lên và mỉm cười.
Chúng tôi rẽ xuống hướng Đông Nam của đường Banjo và đi một mạch tới cuối con đường, sau đó rẽ sang phải. Cả hai vừa đi, vừa nói chuyện rất vui vẻ và ngắm nhìn khung cảnh yên bình xa xa của bãi đất trống bên kia hàng rào trắng. Đôi lúc có mấy chiếc xe tải lướt ngang. Một chiếc Mercedes có vẻ chạy khá gần chúng tôi; nên khi nó vượt qua, chiếc váy dài thướt của bà Jennifer bị tốc lên. Bà la ối một tiếng, đưa tay che lại, rồi cả hai cười ha hả.
Có một lối đi rẽ vào con đường dẫn ra sau khu đất là một ngôi nhà đang được thi công với các giàn giáo to lớn vẫn có thể thấy sau các tán cây tại đường Bloomfield. Bà Jenny[2] nhìn những hàng cây bên kia đường trong khi tôi thì ngắm nhìn khu đất trống. Phía xa xa, có một bóng người đang đứng giữa khu đất. Đó có vẻ là một người đàn ông với độ tuổi khoảng ba mươi tới ba lăm, mặc một cái áo và quần dài màu đen đang quay lưng về phía tôi. Thực tế ra, ban đầu tôi đã cảm thấy kỳ lạ khi gã ta đứng như thế trong suốt khoảng thời gian tôi đi từ bên đây qua tới bên kia hàng rào – khoảng 130 foot – và có thể thấy bãi đổ xe của khu cửa hàng đang trống không. Gã đứng yên một chỗ, chẳng cử động lấy một ngón tay. Một cơn gió thổi qua cũng chẳng thể lung lay được sự cứng cỏi của gã. Tôi cảm thấy cơn ớn lạnh đã quên lãng từ lâu giờ đang quay trở lại. Nó như một đòn đánh tàn bạo đã đánh thức tôi khỏi cảm giác yên bình trong suốt bảy tư năm – từ năm 1922 (thoát khỏi nỗi kinh hoàng năm 1921) tới năm 1996. Nhịp thở của tôi dần gấp gáp khi dán mắt vào bóng lưng quen thuộc, rồi chợt nhận ra có một chấm đen đang đậu ở vai gã. Con mèo quay mặt lại, nhìn thẳng đôi mắt của nó vào tôi. Tôi thét lên và lùi lại, không biết rằng mình đang tiến vào miệng của tử thần. Tiếng còi xe vang lên in ỏi cùng với tiếng lết bánh trên đường. Tiếng thét vẫn tiếp tục vang lên dù miệng tôi đã ngậm chặt: “Abe! Abe! Ai đó làm ơn làm gì đi! Cứu ông ấy với!”
[2] Cách gọi khác của Jennifer.
Thay vì đợi một ai đó – lúc đấy xung quanh chẳng có một bóng người nào ngoài âm thanh o o và tiếng động cơ của những chiếc xe chạy trên đường, vẫn đang là buổi sáng sớm – bà Jennifer McClenahan hốt hoảng lao ra đường và chạy về phía tôi. “Ôi Abraham, chuyện gì đã xảy ra với ông thế này?” Bà đau đớn nói, xốc nách và nâng tôi lên như một bao cát. Trông bà giờ đây ọp ẹp như một cái ghế gỗ bị mọt ăn. Bà phủi hết đất cát trên người tôi với sự nhanh nhẹn yếu ớt.
“Này, ông muốn chết thì cũng tìm chỗ nào ổn áp để chết đi chứ?” Một tiếng hét vang lên đầy bực bội, “Tự nhiên từ đâu lao băng băng ra đường vậy hả, lão già gàn dở ngu ngốc.”
Đôi mắt bà Jennifer toé lửa trong lúc lấy một cái khăn ra và lau mặt cho tôi. Bà phẩy phẩy cái khăn trên đầu mình, miệng thét lớn về phía gã đàn ông ngoài tuổi ba mươi kia đang ngồi trong chiếc Luxury màu đen, “Ngu ngốc cái quỷ tha ma bắt mày hả, đồ quỷ sứ? Bộ chưa bao giờ bất tỉnh giữa đường hay gì. Để rồi coi cái lúc mà mày tám mươi tuổi sẽ như thế nào, đồ dở hơi. Thậm chí tao mong là mày sẽ không có đủ thời gian để nhớ về kỷ niệm mà mẹ của mày cho mày bú ti đấy, đồ khốn kiếp!”
Tôi nhìn những chiếc xe lướt ngang, né chỗ tôi và bà Jennifer đứng; tôi liền nắm tay của bà trong lúc bà vẫn chửi hăng say với gã đàn ông kia.
“Con mụ mắc dịch.” Gã ta nói, “Đừng để tôi gặp lại mụ. Không thì mụ sẽ nhừ xương với tôi đấy.”
“Để coi sao nhé thằng đầu vịt não rỗng vô lại.” Jennifer hét ngược với gã. “Cái mõm chó của mày sẽ bị tao đập gãy hết răng nếu gặp lại.”
Tôi kéo Jennifer trở vô khoảnh đất thừa ra của khu đất bên kia hàng rào thấp, mắt đảo ngang dọc như đang tìm kiếm một thứ gì đó.
Tên ác quỷ và con mèo của hắn đã biến mất.
******
Nỗi kinh hoàng dần quay trở lại. So với những gì mà người ta nói về người già thì sẽ không còn quá sợ hãi đối với những thứ hữu hình như một gã quái vật đã ám ảnh họ thời trẻ, tôi vẫn còn giữ cho nỗi sợ hãi đó tới về già và bùng phát như một quả bom. Nó là một quả bom đã bị kìm nén quá lâu để có thể giữ cho bản thân tôi được bình tĩnh khi đối mặt.
“Ông coi đấy, lũ trẻ bây giờ thật chẳng có chút tôn trọng cho người già gì cả. Nghĩ thử xem, ông cũng đã chín mươi rồi chứ ít gì, thế mà gã đó lại mạt sát ông tới thế. Tôi cũng phải tức giùm đấy, Milford.”
“Được rồi, Jenny.” Bà ấy đỏ mặt khi tôi gọi như thế. “Tôi cũng chẳng còn quan tâm tới lời mà người ta nói về tôi trong suốt cả chục năm nay. Ngay cả đứa con tôi cũng chẳng màng tới dù nó có miệt thị tôi tới cỡ nào đi chăng nữa.”
“Trông ông như một người đa sầu đa cảm thế mà cũng lạnh lùng thật,” Bà ấy nói trong lúc cầm ly cà phê lên, miệng thổi vài hơi cho nguội rồi uống nó với vẻ ngon lành. “Mà tại sao lúc nãy ông lại hốt hoảng dữ vậy? Cứ như nhìn thấy một quả bom rơi từ trên trời xuống vậy.”
“Nếu thế thì nơi này đã trở thành Nagasaki[3] rồi.” Tôi nói, rót thứ nước đen đắng vào miệng mình và thưởng thức nó một cách ngon lành nhất. “Tôi vừa gặp ảo giác. Một loại ảo giác kinh hoàng đã đeo bám tôi trong suốt tám thập kỷ.”
[3] Một thành phố thuộc Nhật Bản bị ném bom nguyên tử.
“Lúc đó hẳn là ông chỉ mới có mười mấy tuổi thôi.”
“Mười lăm.”
“À, đúng thế,” Bà gật đầu tỏ vẻ hiểu biết. Mà thực ra, cái đầu của Jennifer là một ngăn kéo kiến thức tuyệt hảo cho những cuộc nói chuyện. Tôi yêu bà ta rất nhiều, như một ranh giới giữa bạn bè và yêu đương sâu nặng. Bà ấy sẽ không thể thay thế cho Celica, nhưng tôi có thể dành cho bà ấy một chỗ đặc biệt trong tâm trí mình. Bà nói tiếp, “Ở tuổi đó thì ai cũng có những câu chuyện đáng sợ cho riêng mình. Tôi khá là yêu thích truyện kinh dị và thường sưu tập một bộ những tiểu thuyết của Stephen King, Henry James và Shirley Jackson. Nếu ông muốn thì tôi có thể cho ông mượn vài cuốn về nhà đọc. Ừm, ông có hay đọc sách chứ?”
“Cũng thường đọc... và viết nữa.” Thực tế ra tôi đọc rất nhiều, và đây là lần đầu tiên tôi tự viết một phần truyện ngắn cho riêng mình, cho cuộc đời của tôi. “Có lẽ sau khi viết xong, tôi sẽ đưa cho bà đọc thử. Bà thấy sao?”
“Ông có viết truyện nữa à?”
“Đây là lần đầu thôi.” Tôi khiêm tốn nói, mà đó đúng là sự thật. “Tôi không dám chắc mình có viết tốt hay không. Bà sẽ là độc giả kiêm người nhận xét cho nó.”
“Vậy nó là thể loại kinh dị đúng chứ?”
Tôi gật đầu.
“Để tôi đoán. Nó có liên quan tới cái chuyện khiến ông hốt hoảng lúc nãy.” Tôi trễ một nhịp thở khi nghe xong câu nói. Đúng là thế. Trực giác của phụ nữ luôn là thứ không thể xem thường và nghiên cứu bởi khoa học được. Như Baba Vanga[4] chẳng hạn. Có người nói bà mang khả năng tiên đoán tương lai mạnh mẽ nhất trong số những nhà tiên tri trên thế giới. Tôi không phải người theo đạo Thiên Chúa, càng không phải là một người hâm mộ và tin hoàn toàn vào những lời tiên tri của bà ta, nhưng tôi biết được chúng luôn có một sức nặng đối với một số cộng đồng trên thế giới. Mà nhỡ đâu trước mặt tôi cũng là một nhà tiên tri thì sao nhỉ. Jennifer vẫn đang chờ câu trả lời của tôi.
[4] Tên khai sinh là Vangelia Pandeva Dimitrova, sau khi kết hôn thì đổi thành Vagenlia Gushcherova. Một nhà tiên tri nổi tiếng bị mù từ năm 12 tuổi. Bà sống hầu hết thời gian ở vùng Rupite, dãy núi Kozhuh thuộc Cộng Hoà Bulgaria.
Tôi lại gật đầu.
“Thôi nào, ông chỉ cần nói ‘đúng vậy’ thôi.” Bà mỉm cười nhẹ, “Tôi phải sợ dùm nếu ông cứ gật như thế thì đột nhiên đầu của ông rớt khỏi cổ và lăn lông lốc dưới đất đấy.”
“Và tôi vẫn có thể nói chuyện như thường: ‘Ôi Jennifer, đầu tôi rơi rồi, rơi rồi’ hoặc: ‘Ta vẫn sống! Ta vẫn sống! Ta vẫn sống, trong một cái tên của Chúa. Bây giờ ta biết nó có những cảm giác thế nào[5]. Ta là Frankensmilford’.”
[5] Nguyên tác là “It’s alive! It’s alive! It’s alive! In the name of God. Now I know what it feels like!” hay dịch lại là “Nó sống rồi! Nó sống rồi! Nó sống rồi! Trong một cái tên của Chúa. Bây giờ ta có thể biết nó cảm thấy như thế nào!” Lời thoại của bộ phim Frankenstein năm 1931.
Bà cười một lần nữa. “Tôi rất khoái cái khiếu hài hước của ông đấy.”
“Cám ơn!” Tôi kéo cái mũ len của mình khỏi quả đầu và cúi nhẹ (vẫn đang ngồi trên ghế), rồi ngước mặt lên và đội lại cái mũ. “Tôi khá tự tin về khoản hài hước của tôi, thưa bà FrankenMcClenahan.”
“Ồ thôi nào, nghe như hai chúng ta là...” Bà cười cho qua, tự chữa ngượng bằng cách tống một lượng lớn cà phê nóng vào mồm mình. “Nóng! Nóng!”
“Bà dễ xấu hổ thật. Chúng ta đã thân với nhau bao lâu rồi nhỉ? Sáu năm thì phải.” Đúng vậy, sau khoảng mười năm Celica Williams Milford chết, tôi đã gặp được Jennifer McClenahan với chiếc bánh nướng nóng hổi trên tay và nụ cười kéo ra hai bên má, miệng nói giọng ngọt ngào: “Ôi chào hàng xóm mới. Bánh chứ?”
“Tôi không xấu hổ.” Jennifer chống chế đầy nhẹ nhàng, “Chỉ là, tôi cảm thấy ở tuổi chúng ta mà nói tới chuyện yêu đương thì thật kỳ quặc.”
“Còn đối với tôi thì nó như thể chứng minh tâm hồn ta vẫn còn trẻ măng so với gương mặt.” Tôi đưa bàn tay ra và nhéo nhẹ một cái. Nếp nhăn và mấy cái mụn trên da tựa như một tấm lụa cũ kĩ bỏ lâu ngày. Tôi thở dài, rồi hạ tay mình xuống. Tuổi già luôn là thứ khiến con người ta dễ nhận ra cả về sức khoẻ lẫn thời gian hữu hạn cho tới lúc mình chết. Tôi tưởng tượng được mặt đồng hồ sự sống đang đếm ngược từng giây và cả âm thanh của nó.
Tích tắc! Tích tắc! Tích tắc!
“Đôi lúc khi nói chuyện với ông, tôi cảm thấy ông vẫn còn đang che giấu một chuyện gì đó kinh khủng về bản thân khỏi tôi.”
Tôi cảm thấy câu nói đó như một cái tát vào má mình. “Đúng vậy,” tôi thú nhận, “Nhưng đó không phải là điều bà nên biết. Nó sẽ phá huỷ mọi thứ mà bà biết về tôi. Cả sự tôn trọng của bà dành cho tôi.”
“Thực ra, tôi yêu ông đủ mức để sự tôn trọng đó chỉ là một phần nhỏ của tảng băng lớn.” Jennifer lại mỉm cười; đó là món quà của Chúa đã trao tặng cho bà. Tôi mong rằng nụ cười đó sẽ không bao giờ bị cướp mất khỏi bà ấy.
Giờ đây, tôi mới là người đỏ mặt.
******
Sau khi thưởng thức xong phần bít tết Ribeye ngon lành của mình (riêng Jennifer là món crepe kiểu Pháp), tôi và bà ấy rời khỏi quán Huddle House để đi tới cửa hàng tạp phẩm, cách chỉ một khối nhà đại lý cho thuê xe và khu đất đậu những chiếc xe trắng, đen, đỏ, đủ màu đủ loại. Tôi và và Jenny đã rủ nhau chơi trò đoán hiệu xe và nhận biết thêm được một số chiếc như Stutz Blackhawk, Pontiac Firebird thuộc đời khoảng những năm 1970; một vài chiếc thuộc những năm 1950 như chiếc Ford Thunderbird đời 1955, Chevrolet Corvette đời 1957 và Fury cùng năm với Chevrolet. Có một chiếc thuộc khoảng những năm 1920, và nhờ nó mà tôi đã thắng trong cuộc chơi này.
“Ăn gian quá.” Bà Jenny phản đối, “Làm sao tôi có thể biết được trong khi tôi chỉ được sinh ra khoảng một thập kỷ năm sau đó?”
“Chúng vẫn được sử dụng trong nhiều thập kỷ tiếp theo và cả cho tới giờ mà, cô nhóc.” Tôi chỉ về phía chiếc Rolls Royce Phantom Limousine đời 1920.
“Thứ nhất,” Bà giơ ngón tay trỏ lên, “cái tên dài một cách khiếp đảm để có thể nhớ; thứ hai,” Bà giơ ngón tay giữa lên và không bỏ ngón trỏ xuống, “tôi đã quá tuổi để được gọi là ‘cô nhóc’.”
“Đối với tôi thì không.”
“Tôi vừa nhận ra là tôi không bao giờ nói lý lại ông.”
“Cái đó gọi là kinh nghiệm sống.”
“Được rồi, lão già biết tuốt.” Bà nói và bước đi nhanh hơn với dáng vẻ kiêu kỳ của một bà lão ngoài sáu mươi. Thế đấy, bà ấy nhỏ hơn tôi tận hai mấy tuổi và chúng tôi có tình cảm với nhau. Đúng như bà ấy nói, kỳ quặc thật.
Chúng tôi bước vào cửa hàng tạp phẩm với chữ Save a Lot to tướng. Chữ a Lot có màu xanh và chữ Save có màu đỏ, bự hơn so với hai chữ còn lại. Cả hai chia nhau ra để mua đồ mà mình cần, đôi lúc vẫn dõi mắt về phía nhau và bắt gặp người kia đang nhìn mình. Khi đó, cả hai chỉ biết cười cho qua và đi dọc theo các gian bánh kẹo. Tôi mua một hộp bánh Chewy và một bịch Oreo gồm khoảng bốn lăm cái, sau đó ghé qua dãy hàng các hộp trà và chọn cho mình hộp trà Tetley. Thực ra tôi nghĩ mình nên mua loại Ceylon Breakfast thì hơn. Vậy nên tôi đã đặt hộp Tetley lại vào gian hàng và lấy hộp kia.
Xong xuôi, tôi quay trở lại với bà Jennifer hiện đã mua xong những món đồ cần thiết để có thể nấu ăn. Hình như tôi quên đề cập tới những món bánh của bà ấy luôn khiến tôi bị nghiện. Chúng thực sự rất ngon.
Bà ấy lùi lại, đẩy dòng người phía sau một khoảng, chừa tôi chỗ trống để lách vào. So với khoảng thời gian vài chục phút trước, lúc tôi suýt bị xe tông thì giờ đây người ta lại ra đầy ngoài đường để ăn sáng hoặc mua nhu yếu phẩm.
“Có vẻ tôi sẽ được ăn ngon đây.” Tôi vừa nói, vừa xoa xoa cái bụng bự chảng của mình. Tôi sẽ tăng thêm khoảng năm hoặc sáu pound mất nếu cứ ăn uống đồ ngọt như thế. Thậm chí, về tuổi này mà bị tiểu đường là khỏi nhìn đường để đi tiểu vào buổi đêm.
“Ông cẩn thận cho cái sức khoẻ mình đi.” Jennifer trách móc, “Tôi phải ngạc nhiên vì ông đã không chết sau cú ngã lúc sáng đấy. Ở cái tuổi thế này ngã kiểu đó mà vẫn còn sống khiến tôi phải khâm phục ông. Bà dì Sunny của tôi vào nhiều năm trước đã chết chỉ vì ngã dập đầu ra sau do đạp phải một vũng nước trên đất. Và dì ấy cũng ở tuổi xấp xỉ ông. Bác sĩ nói rằng sức khoẻ dì ấy đã yếu; càng lớn tuổi thì các khớp xương càng giòn. Chỉ một cú ngã cũng đủ để giết người rồi.”
“Được rồi mà. Giận quá hại thân đấy.” Tôi tin chắc mình vẫn sẽ còn sống khá lâu nữa trước khi chết. “Nếu tôi vẫn còn đủ sức để nghe bản Sonata và viết thì hẳn là sức khoẻ tôi thậm chí còn mạnh hơn dì của bà nhiều năm trước gấp chục lần.”
Chúng tôi dừng cuộc nói chuyện trong khi nâng cái giỏ hàng của mình lên, vừa định đặt xuống quầy tính tiền thì một cái giỏ khác đột nhiên chen ngang: “Làm phiền tính cho tôi trước. Tôi đang có việc gấp.”
Cô nhân viên có vẻ khó xử với tình huống này. “Nhưng thưa ngài, cửa hàng chúng tôi...”
“E hèm,” Bà Jennifer tằng hắng, ngắt lời cô nhân viên và nhìn gã đàn ông kia, “Bọn già này cũng đang cần tính tiền gấp để về nhà và nghỉ ngơi lắm đấy, anh bạn.”
Gã ta nhìn chúng tôi. Đó là gã đàn ông đã lái chiếc Luxury suýt đâm vào tôi và có một cuộc cãi nhau với Jennifer.
“Thì ra là mày.” Bà ấy nói, mặt đỏ lên vì tức giận. “Thằng khốn lúc sáng suýt đâm vào ông bạn tao.”
“Bà...” Gã nhăn mặt, biết được rằng mình sắp có rắc rối lớn. “Quỷ tha ma bắt thật. Sáng sớm đã gặp một con mụ dơi già điên khùng.” Gã quay về phía cô nhân viên ở quầy, “Tôi không mua nữa, phiền cô trả lại các gian hàng dùm tôi.”
“Thưa ngài...”
“Đứng lại đó thằng quỷ sứ,” Jennifer lại ngắt lời cô nhân viên, “Tự thải phân ra thì tự dẹp đi chứ?”
“Tôi không hơi đâu nói với bà.” Gã ta nhìn đồng hồ với vẻ gấp gáp, rồi quay lưng bước đi nhưng lại bị Jennifer nắm tay áo lại.
“Không phải lúc sáng mày hùng hổ lắm ư? Đe doạ rằng tao sẽ nhừ xương với mày mà? Sao chạy như một con chuột nhắt thế hả?”
“Dừng lại đi, Jenny.” Tôi ngó xung quanh và thấy mọi người đang nhìn chúng tôi. “Đừng làm lớn chuyện nữa.”
“Buông tôi ra đi, Milford. Chính thằng đốn mạt này đã nhục mạ ông đấy.” Jennifer hất cánh tay tôi ra ngay khi nó chỉ vừa chạm vào vai bà. Bà quay sang nói với gã đàn ông kia, “Nếu mày muốn tao tha cho mày thì mày phải xin lỗi Abraham liền.”
“Mắc mớ gì chứ?” Gã trừng mắt, cứ như chuẩn bị đấm vào mặt Jennifer nếu bà ấy có giữ gã ta lại một lần nữa, “Nghe này bà già. Nếu tôi mà không đi ngay lập tức thì tôi sẽ vụt mất cái công việc này. Vậy nên đừng có làm phiền tôi hoặc tôi sẽ gọi cảnh sát đấy.”
“Gọi? Gọi đi.” Bà ấy quát lớn, “Để rồi xem ai đúng ai sai. Chính mày là đứa đã mạt sát bạn tao trước. Nếu mày không xin lỗi thì sẽ chẳng ai rời khỏi đây.”
“Jenny–”
“Khốn kiếp! Tôi mà mất việc này là vợ con tôi chết đói đấy bà già điên.”
–Tôi bất lực tuôn từ ngữ cuối cùng ra khỏi họng và cảm thấy như có một tia điện xẹt ngang gáy mình. Mọi thứ trước mắt xoay chong chóng như thể trời và đất đảo lộn vị trí cho nhau. Gương mặt của Jennifer McClenahan quay sang tôi, hốt hoảng thét lớn. Nhưng tiếng thét đó hầu như tôi không thể nghe thấy. Cứ như một cuốn băng quay chậm. Những con người xung quanh cũng kinh hoàng khi cơ thể tôi bắt đầu đổ gục xuống nền đất. Jennifer trợn mắt lao tới đỡ tôi dậy một cách khó khăn trong khi gã đàn ông kia tái xanh mặt mày nhìn tôi, rồi nhìn xuống đồng hồ đeo tay. Đôi mắt gã khác so với đôi mắt xanh lá hiện đang trợn trừng bất ngờ của Jennifer – nó có màu nâu, thể hiện như đang muốn rời khỏi đây thật nhanh để tới chỗ phỏng vấn xin việc. Gã có vợ con. Gã cần công việc đó. Tôi muốn nói cho gã biết là gã hãy bỏ đi và mặc kệ Jennifer có nói gì đi nữa. Nhưng rồi, khi gã bỏ đi – ngay lúc đó có một cậu trai trẻ cầm điện thoại lên, dường như đang bấm số chín-một-một – lòng tôi bỗng dấy lên một nỗi căm phẫn không rõ ràng với gã. Thật kỳ lạ vì chỉ mới trước đó tôi đã lo lắng cho gã sẽ đánh mất công việc vào tay kẻ khác và gia đình gã sẽ không có tiền. Giờ đây tôi lại chỉ muốn toàn bộ gia đình gã là nạn nhân của vụ cháy năm xưa thì hơn.
Tôi nhìn theo bóng lưng gã chạy khỏi cửa hàng với cơn phẫn nộ của nhiều người xung quanh và thấy được một người đàn ông khác nữa đứng ngoài cửa sổ cửa hàng nhìn vào bằng cặp mắt lạnh băng. Cặp mắt có màu thạch anh tím.
Thế rồi, tôi bất tỉnh. Giống như câu chuyện vào bảy lăm năm trước.