Nghĩ thân thế héo hon tấc dạ,
Trông non sông lã chã dòng châu,
Một mình cảnh vắng đêm thâu,
Muốn đem máu đỏ nhuộm màu giang san.
("Chiêu hồn nước" - Phạm Tất Đắc)
Tháng mười năm ấy, khi chiến sự ngày một căng thẳng nguy cấp, hai cánh quân của Trương Phụ và Mộc Thạnh đã hội lại thành một lực lượng đông tới hàng vạn ở phía bên kia Bạch Hạc, Hồ Nguyên Trừng nhận lệnh của Thượng hoàng ra trấn thủ Đa Bang. Khi trước, chính hắn là người trực tiếp đốc suất dân phu xây thành trong thời gian ngắn, giăng xích trên sông nên hiểu rõ địa thế vùng này nhất, chỉ cần bảo vệ được Đa Bang thì kinh thành sẽ an toàn. Giờ đây Bạch Hạc đã trở thành ranh giới tự nhiên duy nhất ngăn cách hai bờ chiến tuyến, hắn biết thời gian của mình đã chẳng còn lại nhiều nữa.
Đa Bang, tường cao hào sâu, thế như bàn thạch. Đa Bang còn thì Đại Ngu còn, Đa Bang mất thì Đại Ngu vong. Ấy vậy mà an nguy tồn vong của non sông gấm vóc này lại hết thảy trút lên vai hắn.
Hôm nay đứng trên mặt thành phóng tầm mắt ra bốn phương xa xôi, đồng nội chỉ còn trơ lại một mảnh tĩnh lặng rợn ngợp, cỏ lau từng bụi hiu hắt, buồn tẻ. Trên thinh không chỉ còn thứ ánh sáng bàng bạc như có mây mù bao phủ, quạ réo liên hồi. Phía bên kia sông Bạch Hạc, phía bên kia chiến tuyến, Hồ Nguyên Trừng có thể tưởng tượng được cảnh từng đoàn quân trùng điệp đương ngày đêm tiến về, cờ xí rợp trời, hùm tâm vạn trượng. Từng tấc đất, từng mái nhà đang dần mất đi. Kinh thành và hai mươi vạn dân chúng chỉ nằm cách đó trong gang tấc.
Hắn thấy trước mắt là muôn trùng cọc nhọn giăng xích sắt khắp các ngả sông, hàng loạt đồn quân trấn giữ các cửa, luôn có quân luân phiên canh gác, tưởng chừng không có sơ hở. Những chiến thuyền hai lầu dùng để tải lương, mộ lính lướt gió băng băng. Toàn bộ sự chú ý đều hướng về Đa Bang. Tướng Tả quân Thánh Dực Hồ Vấn thân đi mộ lính, hướng tay ra bát ngát sóng kình, nói:
- Mấy trăm dặm Bạch Hạc quân ta đều đã đóng cọc, điều quân thủ hiểm, lương thảo khí giới đều đã trù bị đầy đủ. Chúng ta cứ tử thủ ở đây, thì đến cả năm trời quân Minh cũng không dễ đánh chiếm được!
Điều đó đúng với ý muốn của Hồ Nguyên Trừng. Theo ý của Thượng hoàng Hồ Quý Ly, hắn dốc sức thu thập đồ kim khí để dựng lên dãy phòng tuyến này, chế tạo vũ khí bí mật, thuyền cổ lâu, Vua rất ưng bụng. Đáng lẽ với tất cả sự chuẩn bị kĩ càng như vậy, với việc được trọng dụng như vậy, hắn nên thấy vui mới phải. Thế nhưng chẳng hiểu sao, trong lòng vẫn như có tảng đá nặng đè lấy, ngày một chìm sâu, tới không thở nổi.
Hồ Nguyên Trừng đưa mắt nhìn ngọn cờ phần phật tung bay trên nóc thành, thấy gió nổi lên làm mặt nước động dữ dội, uốn mình như cái bẫy chực sập xuống, tới tấp quật vào bờ. Hắn nói:
- Cắm cọc quanh sông chỉ khiến quân Minh không tiến công được bằng đường thủy. Cấp tốc xây Đa Bang cũng chỉ là thêm một tòa thành chắn đầu ngọn sóng, đứng mũi chịu sào. Gió Bắc đã nổi, chúng ta càng nên cẩn thận…
Hồ Vấn tựa hồ không hiểu ý, ánh mắt thoáng ý cười, hỏi lại:
- Sao trước thềm trận chiến mà tướng quốc sớm thối chí ngã lòng? Đã trải qua ngót ngàn năm, mối nguy phương bắc kia vẫn luôn ở đó, chưa một lần ngơi dã tâm xâm phạm bờ cõi. Nước ta với chúng là núi liền núi, sông kề sông, không thể tránh được, nhưng không có nghĩa là sẽ đứng yên chịu trận. Khi xưa chênh lệch lực lượng tới mức nào mà quân Mông Nguyên ba lần còn thảm bại, huống chi nay quân ta còn có Đa Bang vững như thành đồng?
Hồ Nguyên Trừng tiến lại gần đặt tay lên bờ tường thành, cảm nhận hơi lạnh buốt từ lòng bàn tay truyền tới. Ba trăm năm trước, cuộc chiến thắng trước đội quân hùng mạnh từng muốn cày nát cỏ cây của mảnh đất này, quả đúng là một kì tích chẳng ai có thể ngờ được. Không thể chối cãi được rằng nhà Trần đã tạo được cái ơn sâu dày cho Đại Việt. Qua bốn đời Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông, nước Đại Việt đã cường thịnh chưa từng thấy. Hơn một trăm năm văn hiến mở mang, người hiền tài đông đúc, ba lần thắng giặc Nguyên, biên cương mở rộng, thóc gạo ê hề, nơi thôn cùng ngõ hẻm cũng vang tiếng hát...
Hơn một trăm năm. Minh quân, lương thần, danh tướng, đều trở thành những cái tên mà dù cho vật đổi sao dời, thay triều đổi đại, vẫn được người người kính phục. Hết họa loạn mới tới đồng lòng, trải xương máu mới tới phồn hoa, cùng góp phần làm nên một dấu son Đông A huy hoàng.
Chính vì lòng người còn lưu luyến một triều đại quá đỗi vàng son, mới chạnh lòng khi lầu hoa trở về với cát bụi, không thể chấp nhận thêm một triều đại nào khác. Ba lần chống Nguyên năm ấy là một phép màu, mà đã là phép màu, thì không dễ gì xảy ra một lần nữa…
Quân trướng hôm nay được bao phủ bởi bầu không khí căng thẳng tù túng khó chịu. Các tướng ngồi quay lại bên bàn cát dựng lại địa đồ tình hình chiến sự vùng Bạch Hạc với các mô hình bằng gỗ chuốt mịn và lá cờ khác màu để đánh dấu giới tuyến. Phía bên kia sông là lớp lớp lều trại của quân Minh, ngay từ những ngày đầu đến đây chúng đã rêu giao rằng quân số chúng đông tới mười vạn để giáng đòn tinh thần lớn là nhụt ý chí của dân ta. Còn quân nhà Hồ, thắng lợi hiếm hoi ở cửa Lãnh Kinh đã không còn đủ sức để khích lệ ba quân nữa khi những lần xuất binh sau đó của Hồ Nguyên Trừng đều phải chịu thất bại liên tiếp. Chiến sự gần kề, hắn lại càng đau đầu nghĩ đối sách, chỉ tay về phía giữa dòng Bạch Hạc trên địa đồ cát:
- Quân Minh ắt phải biết tình thế hiện tại là nếu như chúng không hạ được Đa Bang thì sẽ chẳng thể tiến sâu thêm được, Trương Phụ là kẻ đã trải qua nhiều trận chiến đến mức lão luyện về binh thùy, nổi tiếng là tàn ác và thủ đoạn, sẽ không dại gì mà tự ý dẫn quân tập kích Đông Đô để hao binh tổn tướng thế đâu. Chúng ta cho đóng cọc giăng xích khắp các ngả sông, đường sông không thể đánh, chúng phải đang cố gắng tìm được một khoảng đất trống để làm bàn đạp tiến công mới phải
- Ý Tướng quốc là việc Mộc Thạnh đánh Đông Đô là một cái bẫy?
Hồ Nguyên Trừng chống tay lên thành bàn, đăm chiêu suy nghĩ. Cảnh khói lửa rực trời trong thoáng chốc lại hiện về trong tâm trí, Mạc Địch, Mạc Thúy đã dẫn cả nhà ra hàng quân Minh và đã tình nguyện tiết lộ sách lược phòng thủ của quân Hồ và xin làm nội ứng, chính vì thế mà lần ra quân tập kích của Hồ Nguyên Trừng ở Bạch Hạc đã thất bại và tổn thất nặng nề. Cũng qua lần ấy, hắn cũng buộc phải hiểu rằng kẻ thù của họ Hồ ngay lúc này, có lẽ không chỉ riêng gì quân phương Bắc xâm lược.
- Có lẽ… đó chỉ là kế nghi binh của Mộc Thạnh, nhằm dụ ta phải điều bớt quân từ Đa Bang về Đông Đô, tạo thời cơ cho Trương Phụ tập trung đại quân công hạ Đa Bang.
Các tướng nghe vậy thì sốt sắng:
- Vậy chúng ta phải làm sao bây giờ?
- Đa Bang tuy bao bọc bởi tường cao hào sâu thế nhưng vẫn có thời khắc để lộ ra sơ hở. Chỉ vài hôm nữa sẽ là ngày rằm, mặt nước Bạch Hạc rút xuống và để lộ một khoảng bờ cát rộng, rất có khả năng chúng sẽ nhân thời cơ đó mà tấn công. Thời điểm này là chốn xung yếu nhất để không bị sẩy mất con cá lớn Mộc Thạnh…- Mới chỉ nói tới đó Nguyên Trừng đột nhiên lặng thinh một hồi, lời nói cũng trở nên thiếu tự nhiên - Hiện nay tất cả lương thực và thuyền chiến của chúng ta đều đang tập trung ở bãi Mộc Hoàn, nhất định phải điều quân ngày đêm canh giữ cẩn mật và phải kịp thời ứng viện khi có bất cứ việc gì xảy ra.
Cũng chỉ còn có thể như vậy, Hồ Nguyên Trừng vô thức siết chặt lòng bàn tay lại. Hắn lại muốn tự ý điều quân đó sao? Qua thư từ gần đây Nguyễn Cẩn đã cảnh báo không dưới một lần về điều đó, rằng uy tín của hắn với Thượng hoàng đã không còn như trước. Đã có thánh chỉ ban xuống là không được tùy ý xuất binh thêm một lần nào nữa mà phải tập trung thủ vững Đa Bang, nếu không thì sẽ phạm phải tội khi quân. Nhưng lúc này đây thế giặc như vũ bão, tình cảnh đang ngàn cân treo sợi tóc, lại nói rằng lòng dân đang xao động, hắn lại khó lòng ngồi yên trông chờ mọi việc cứ ngày một tệ đi thế.
- Bẩm Tả tướng quốc, trong lúc thị sát dọc cửa Lãnh Kinh, chúng thuộc hạ bắt được thứ này!
Hồ Nguyên Trừng nhìn chằm chằm vào mảnh ván gỗ được dâng lên, lòng bàn tay vô thức siết chặt lại. Mặt ván gỗ ngâm nước nhưng hãy còn khá mới, vẫn chưa bị mục ra, trên đó khắc rất rõ những nét chữ, là bảng văn treo kể tội nhà Hồ của quân Minh. Các tướng khi trông thấy cảnh ấy, thoạt đầu là kinh ngạc bất bình, sau đó là lo lắng.
- Kẻ nào nghĩ ra kế thâm độc đến nhường này?
- Là Tây bình hầu Mộc Thạnh! Tên phó tướng gian xảo đó biết được lòng dân Đại Ngu đang xao động, mới muốn thừa dịp nước đục thả câu, ra chiêu hèn này để phủ dụ.
Mộc Thạnh, Hồ Nguyên Trừng lẩm nhẩm mãi hai tiếng ấy, gã là cường địch, nếu sau này gặp lại trên chiến trường thì thật khó nói trước. Nhà Minh có âm mưu thôn tính phương Nam là điều rõ như ban ngày, nhưng luận điệu phù Trần diệt Hồ kia không phải ai cũng nghĩ ra.
Hồ Nguyên Trừng đi ra ven mé sông nhìn lên thượng nguồn, ánh mắt men theo dòng chảy vô thủy vô trung kia mà hướng ra xa mãi mặt nước mênh mông. Khắp những con sông miền này, có bao nhiêu tấm ván khắc được thả trôi như thế, có bao nhiêu người nhặt được, bao nhiêu điều người ra truyền tai rỉ rả với nhau, hắn không tưởng tượng nổi. Quân sĩ có người thưa rằng nên tìm cách thu hết những tấm ván kia lại, Hồ Nguyên Trừng chỉ khẽ lắc đầu, không kịp nữa rồi…
Tấm ván này tựa như một lời tuyên chiến từ kẻ địch mà Nguyên Trừng còn chưa hiểu rõ bụng dạ. Hắn dường như còn nghĩ tới điệu cười nửa miệng của đối phương, rằng gã đã thấu được lòng dân nước Nam.
Đa Bang dựng lên ngay trên mảnh đất quật cường chưa một lần khuất phục, sừng sững và vững chãi hơn tất cả những bức phòng tuyến người ta từng được thấy. Thế nhưng nó càng kiên cố, càng đồ sộ, càng chứng tỏ rõ những vết thương đang dần dà khoét sâu vào lòng người, vẫn luôn âm ỉ. Người ta dốc sức cho nó, cũng chỉ để che giấu rằng triều đình đang trăm mối ngổn ngang.