Chương 10: Khúc Ca Thành Sếu

Chương 10. Phụ lục cho Hồi Ba: Nói một chút về trận Vuốt Cắt

2,568 chữ
10 phút
8 đọc
1 thích

Ngày xửa ngày xưa, cái thuở đế vương vẫn đóng đô ở Áng Nàng, học được thứ tà ma thuật quỷ, Lả Tro xưng là Chúa Tể đem quân sang diệt các Xứ Lạc Tục ở Bắc Hà. Quân Lả Tro tràn qua như vũ bão, vó ngựa Lả Tro tới đâu, cỏ không mọc được tới đó. Không rõ chuyện xưa ra sao, Áng Nàng mất vào tay giặc.

Giặc kéo qua Xứ Uông Liễn. Ta mất nước Liễn. Giặc kéo qua Xứ Rạng Đông, Xứ Núi Gôi. Ta mất nước Rạng, nước Gôi. Chúng tàn sát, cướp bóc, chặt đầu đàn ông, làm nhục đàn bà. Trẻ em, người già chúng cũng không bỏ sót. Sông Đà Cái nhuộm đỏ máu người Lạc Tục, đặc quánh thứ bùn đất ngoại lai của bè lũ Lả Tro.

Tiêu diệt được thành Áng Nàng, ráo riết chuẩn bị, theo cánh cung phía Tây mà chinh phạt toàn bộ Lạc Tục, Lả Tro nhiều lần gửi yêu sách đòi các Bố cái Lạc Tục sang hàng, nhưng đều bị cự tuyệt.

Sùng Lãng cùng Âu Kỷ muốn khảo ý Trời Đất nên cất công lên đền Động Ang trên núi Ba Gò. Hai vị lập một đàn, bày lễ vật từ khắp các miền Xứ Gọa Tánh lên trên, ăn chay, thắp hương ba ngày liền. Vua cho ngự giá Tồng nghiêm trang, chỉn chu nhưng lạ thay Tồng mãi mà không ứng, sốt ruột vô cùng. Bỗng nhiên một con nai sừng từ trong rừng bước ra, tới đâu vàng chảy ra tới đó. Nai tha xương thú để lên bàn đá gần đó rồi biến mất. Hùng Mang thấy phép lạ thì ra xem. Thấy nai xếp từ dưới lên sáu hàng, năm hàng đều là xương dài, duy chỉ có hàng thứ hai là hai xương nhỏ xếp lại thành một.

“Ba hàng dưới cùng là trận Lữ, ba hàng trên ấy là trận Bà Lôi. Lửa bốc lên cao tận trời, là soi rọi được khắp thế gian. Thế là ý trời rọi tỏ được muôn dân, quân tử thiên hạ thông suốt được tâm trí của mọi người. Ấy là đại đồng vẻ vui, phải tụ họp mới nên được việc lớn.”

Giải quẻ xong, Hùng Rồng triệu tập bảy Bố cái còn lại ở Cổ Lũng, phương Tôn Tỏ (phía Nam) hồ Tiên Đạm Thê, Bắc Hà. Hội nghị mười lăm ngày đêm kéo dài, kế công kế thủ thế nào hiệp mưu họp bàn lại.

“Giặc Viên vào cướp nước là nạn lớn nhất của đất nước. Nay thế giặc mạnh, e là chẳng lấy lại được Áng Nàng, Uông Liễn, Rạng Đông, Núi Gôi.”

Sùng Lãng Hùng Rồng, khi ấy đứng đầu Hội Nghị, quyền hành như Khả-lang ở Áng Nàng, há lại không có quyền quyết định mà phải đợi đến ban yến xin đồng thuận ở bảy vua hay sao? Hùng hỏi ý kiến bảy vua. Các vua đều nói “đánh”, cùng hô một tiếng, như bật ra từ cùng một miệng. Như thế là vì Hùng Rồng muốn xét lòng thành ủng hộ của dân chúng muôn phương Lạc Tục, để dân chúng nghe theo lời dụ hỏi mà hăng hái lên.

Thế là dân chúng khắp nơi theo hầu. Các phường nông gia sức góp lương, các phường rèn nghiêm chỉnh khí giới. Tám Vua Cổ Lũng từ ấy tinh luyện sĩ binh, lại phát động đi tìm bậc kỳ tài trong thiên hạ, kẻ nào phá được giặc thì phân tước phong ấp, truyền hưởng chín đời ba họ.

Dưới dãy núi Ba Gò, chân núi Tỏ, một người đàn bà già sáu mươi tuổi mà vẫn đơn chăn gối chiếc, chưa có nổi một mụn con. Sau một đêm bão bùng, bà thấy một dấu chân khổng lồ ở sau nhà, bèn ướm thử vào ấy. Thế rồi bà thụ thai, đẻ ra một người con trai. Đến ba tuổi mà người con trai vẫn không biết nói biết cười, ba tuổi mà vẫn nằm ngửa không biết lẫy. Thế mà một ngày, nghe tin Hùng Rồng cử sứ giả đi tìm người tài, cậu bé đột nhiên nói, “Gọi sứ giả tới đây!”

Dân làng vui mừng quá mới đổ xô đi gọi sứ giả về. Sứ giả thấy thằng bé như thế mới coi là điều khó tin:

“Mày là đứa trẻ mới biết nói, gọi ta đến làm cái gì?”

Cậu bé nhổm dậy, bảo sứ giả rằng:

“Ông về tâu với vua, rèn một con ngựa sắt, một thanh kiếm sắt, một roi sắt và một nón sắt mang tới đây cho ta. Ta cưỡi ngựa đội nón ra đánh giặc Viên, chúng nó tất phải kinh hồn mà bại trận, Đức Vua của ông phải lo gì nữa?”

Sứ giả mừng rỡ vội về tâu Hùng Rồng. Hùng Rồng lại trình lên Cổ Lũng. Các Bố cái nói:

“Cả một thành còn không đánh được giặc, huống chi thằng nhãi con?”

Hùng Rồng mới kể lại chuyện gặp thấy Nai Thần rồi từ tốn khuyên bảo:

“Ấy là linh hồn Thánh Tổ Lạc Tục Cơ Đai hiện về. Quẻ hiện lửa và trời, trong ngoài nóng cùng nóng, cũng như quân tử lấy cái chung mà hợp lại thành một. Nay ta đã hiểu, mới khuyên các anh em đừng vì hoài nghi mà cản trở vận trời, thánh sự.”

Nghe thế, tám xứ góp sắt luyện thành ngựa, kiếm, roi và nón cho cậu bé. Mẹ cậu sợ hãi cho rằng sắp có tai họa bị Khả-lang trừng phạt. Con trai thấy thế mới cười bảo mẹ:

“Mẹ đưa cơm trắng canh cà cho tôi ăn, còn việc đánh giặc mẹ chớ có lo.”

Người con lớn lên nhanh như thổi. Bao nhiêu cơm bao nhiêu cà cũng không đủ no, bao nhiêu nước cũng không hết khát. Nghe tin cánh quân giặc Viên từ phương Lạn Hôm (phía Tây), đi qua Thung Lũng Chết, tiến vào cửa ải Vuốt Cắt, tới sát núi Rú Voi, cậu duỗi chân đứng dậy, cao ngang đồi Hy Lĩnh, ngửa mũi hắt hơi mười tiếng to như tiếng sấm rền, rút kiếm rồi thét lớn:

“Ta là Người Trời đây!” rồi đội nón cưỡi ngựa.

Bấy giờ quân lính đã sớm dựng trại, đóng bên bờ hồ Đạm Thê, nghe tin về vị thánh nhân khổng lồ đất Gọa Tánh hạ thế, mà trở nên hứng khởi, phấn chấn khác thường. Hùng Rồng phong cho ngài là Thình Lình Bố cái Ngai, nghĩa là Vị Đại vương Đột ngột Cao lớn. Đi cạnh là vị tướng trẻ tuổi Hùng Y với cây Kim Đao xứ Sếu dẫn đầu ba mươi vạn quân tiến về ải Vuốt Cắt.

Bố Ngai ngồi lên ngựa sắt, ngựa sắt hí vang một tiếng. Bố Ngai thúc chân ngựa sắt, ngựa sắt phun thẳng ra đằng trước một dòng lửa đỏ rực, lửa cháy lên thành mao, đuôi ngựa, đỏ lòm hốc mắt, trông dũng mãnh vô cùng.

Khi ấy trời còn tờ mờ sáng, sương mờ phủ khắp ải Vuốt Cắt. Đoàn quân của Chúa Tể Lả Tro tiến vào khe núi, rú trời, gầm đất. Tiếng bước chân rền như sấm, âm thanh kẻ chỉ huy gào lên như sét đánh. Bỗng nhiên từ trên hai triền núi Rú Voi, tên lớn lao xuống như mưa bão. Mũi tên sắc bén xuyên qua giáp trụ, xé nát đội hình kẻ thù.

Hóa ra, ấy là cánh quân của Hùng Y đã lặng yên mai phục, chuẩn bị sẵn nỏ lớn, giáo dài từ trước. Thừa thắng xông lên, Hùng Y cầm Kim Đao dẫn hàng ngàn lính, phi xuống đánh tan quân địch. Thế nhưng kỳ lạ thay, khi xuống đến lòng núi, những tên giặc tưởng chừng như vừa bị cung bắn chết bỗng chảy ra thành bùn đất, nhão nhoét cả một đoạn thung lũng dài.

Ai nấy đều không hiểu chuyện gì, quay qua nhìn nhau, bối rối. Tiếng cười của Lả Tro vọng lên từ sâu trong sương mờ, như giọng của quỷ ma từ âm ti địa ngục. Thấy đã dùng hết tên, lại không đủ để cận chiến, Hùng Y dẫn quân rút về chỗ Bố Ngai đang đợi.

“Chắc chắn là ma pháp của hắn! Mau chạy ra khỏi ải! Mau!”

Quân Chúa Tể tràn ra khỏi miệng ải Vuốt Cắt như máu độc. Tới đâu, cỏ tan thành tro ra tới ấy. Khi đó, Hùng Y mới biết mình đã mắc phải mưu kế của Chúa Tể.

Bố Ngai thấy vậy, chỉ cười nói “Ngươi chớ có lo!” rồi thúc chân; ngựa phi như bay lên trời, sải từng bước dài hàng chục con sào, rung chuyển trời đất. Vị thánh tiến thẳng vào lòng địch, vung kiếm loang loáng như chớp giật, mạnh tới nỗi cây cối đổ rạp xuống như ngả dạ. Ngựa sắt phun lửa nóng như mặt trời, thiêu đốt hết mấy cánh rừng.

Giặc không chịu được nằm quằn quại trên đất, có kẻ lại tự bốc lửa, chạy toán loạn như ma trơi rồi đâm sầm vào đồng đội. Thế là đám cháy lan ra, tạo thành cảnh tượng hỗn loạn giữa thung lũng núi sâu. Khói bụi mịt mù, tiếng la hét, kêu gào vọng lên như tiếng rống của loài dã thú.

Tưởng chừng như thế giặc sắp tan, Chúa Tể xuống khỏi ngựa quỷ Ten Mả Ngạ, đứng giữa trời đất hỗn loạn, đâm kiếm vào sâu trong mặt đất. Mặt đất tơi bời, tách ra thành một vực sâu, rẽ đôi thung lũng. Vết nứt sâu tới nỗi dung nham từ dưới phun lên mấy đốc, trào ra như nước ngầm.

Trời tối sầm, mây đùn kéo đến từ bốn phương, sấm gầm liên hồi, sét đánh mãi chẳng dứt. Hùng Rồng mở to mắt nhìn cái thứ ma quái từ trong lòng đất xuất hiện. Ấy là một con cú khổng lồ, đôi cánh rộng vỗ mạnh tới nỗi một toán quân Lạc bị hất ngã sõng xoài. Cú đen kịt như mực, quanh thân cú khói xám nghi ngút, mắt cú đỏ như than hồng cháy sáng. Nó há miệng đầy răng nanh nhọn hoắt, đoạn lại lè ra hai cái lưỡi dài, một đỏ một đen, ngoằn ngoèo như rắn.

Hùng Rồng hét lớn:

“Cú Tu Lán! Bịt tai lại! Mau!”

Quân lính chưa kịp hoàn hồn thì con chim cú đã thè cái lưỡi đen ra, kêu lên inh ỏi. Tiếng thét của Tu Lán như xé da xé thịt, mổ bụng lôi ruột ra ngoài. Quân Lạc bị kích động, kẻ thì vỡ màng nhĩ, máu trào ra từ tai, rồi chết tươi tại chỗ. Người thì phát điên, tự đâm mình kết liễu. Cảnh tượng kinh hoàng như thể ngày tận thế. Trong khi ấy, quân Chúa Tể, do được ma thuật bảo vệ, vẫn giữ vững được đội hình, không những không bị ảnh hưởng, lại tiến lên như thác lũ.

Người xưa kể lại rằng, lưỡi của Tu Lán xẻ ra thành hai: một đen một đỏ, tục gọi là một âm một dương. Hễ bao giờ cú kêu bằng lưỡi âm thì có người phải chết, kêu bằng lưỡi dương thì người mới sống lại. Đoạn Cú Tu Lán vừa há miệng thè lưỡi âm, chuẩn bị gào lên thì Hùng Rồng lập tức nhảy phắt lên lưng ngựa, vươn mình tung kiếm xẻo đứt ngay lưỡi âm. Con cú kêu la thảm thiết, nhưng mất lưỡi âm, nên chẳng thể đánh gục thêm ai nữa. Những chiến binh người Lạc vừa ngã xuống vì tiếng kêu của nó bỗng sống dậy, như được kéo trở lại từ cõi chết.

Bố Ngai cầm chắc thanh kiếm, ánh mắt rực lửa giận dữ, lao thẳng vào bè lũ man rợ. Mỗi nhát chém là một trận cuồng phong. Trong cơn cuồng nộ, thanh kiếm vô tình vung trúng vào quả núi gần đó. Một tiếng nổ lớn vang lên, núi đã bị xẻ đôi. Đá lở ầm ầm rơi xuống. Bởi vì thế mà kiếm vỡ vụn, gãy tan ra thành từng mảnh. Ngài thuận tay nhổ không biết bao nhiêu là tre hai bên đường, quật tới tấp vào các toán giặc. Bọn lính bảo vệ Chúa Tể ngã nhào, thân thể tan ra dưới sức mạnh phi thường. Bố Ngai tiến tới đối mặt Lả Tro.

Cả hai đứng giữa hỗn chiến, một bên là thánh nhân, một bên là phù thủy ác độc. Dáng vóc của Lả Tro chẳng kém cạnh, cao lớn, ngang ngửa với Bố Ngai. Ánh mắt hai kẻ đối địch giao nhau, không khí như bị nén lại, thời gian như đã ngừng trôi.

Từ khe nứt dung nham, hàng trăm dây leo đen ngòm, nhớp nháp vươn ra. Chúng quấn chặt lấy Bố Ngai, siết mạnh quanh đầu, cổ tay, cổ chân, và từng đốt xương trong thân thể. Mỗi dây leo kéo về một phía như muốn xé toạc thân thể Bố Ngai. Thế nhưng Bố Ngai không hề run sợ. Từng cơ bắp cuồn cuộn căng lên. Ngài gồng mình, cánh tay rắn chắc nắm chặt lấy một trong những dây leo đang cuốn quanh cổ, giật mạnh. Một tiếng rách vang lên, dây leo đầu tiên, rồi đến cái thứ hai, thứ ba, từng cái một đứt lìa trong tay ngài.

Lả Tro nheo mắt, đôi môi con cớn một nụ cười hiểm độc. Hắn giơ tay lên, một bức tường lửa xanh lòe loẹt dựng lên bao vây xung quanh Bố Ngai. Bố Ngai nhảy phắt lên, nắm chặt những thân tre còn vương đầy bùn đất, quật mạnh vào Chúa Tể. Lả Tro lướt nhanh như một cơn gió, tránh được từng đòn của Bố Ngai. Từ lòng bàn tay hắn, một luồng lửa đen phóng ra, xoáy thẳng cánh tay phải của Bố Ngai, cháy lên phừng phực. Ngài lấy tay trái, nhổ thêm một bụi tre nữa, rồi gầm lên một tiếng:

“Tre ơi, hãy tách ra!”

Bụi tre tách ra thành các đốt tre, mỗi đốt tre lại hóa thành một phi tiêu tre bọc sắt sáng loáng. Ngài vung tay, hàng trăm phi tiêu hướng về phía Lả Tro mà phi tới.

“Phập!”

Cả chiến trường im bặt, chỉ còn tiếng thở nặng nề của Lả Tro. Hắn nằm đó, hàng trăm phi tiêu đâm xuyên qua thân thể lạnh lẽo. Đôi mắt trừng lớn nhìn lên Bố Ngai, máu chảy thành dòng thấm đẫm mặt đất. Ngay khi ấy, con ngựa sắt lao tới, phun lửa đỏ rực, thiêu cháy Chúa Tể. Ngọn lửa bốc cao, nuốt chửng toàn bộ thân hình kẻ thù tàn ác, chỉ còn lại một đống tro đen xám, tan dần vào gió.

Thấy chúa công chết, lũ man rợ hoảng hốt, bỏ chạy tán loạn. Mặt Trời vén màn mây mù, chiếu thẳng vào Bố Ngai đang sừng sững, chiếu vào giáp trụ rực rỡ như ánh sáng của thánh thần. Ngài đã thắng. Quân Lạc đã thắng. Cả vùng núi Rú Voi giờ đây chỉ còn lại những tiếc hò reo khải hoàn, vang vọng khắp trời xanh.”

Cũng vào lúc ấy, cái cây thần trên ngọn núi Hy Lĩnh bắt đầu mục ruỗng.

Truyện Khúc Ca Thành Sếu đã đến chương mới nhất. Hãy truy cập Vietnovel.com thường xuyên để cập nhật thông tin nhé!