Chương 1: Cầu Sinh

Chương 1. Đêm không trăng

6,435 chữ
25.1 phút
215 đọc
1 thích

Trên một con đường ruộng nhỏ vắng vẻ ở sâu trong huyện Củ Chi, có hai người đang đi rất vội. Giờ đã là sáu giờ chiều, khi mà mọi nhà đã bắt đầu lên đèn, nhưng ở chỗ này ngoài ruộng nước mọc đầy rau muống rau dại, cây cối um tùm thì xa rất xa mới có một nhà dân nên chẳng thể nào thấy rõ được hai người kia bọn họ là ai, đang đi đâu. Chỉ có thể dựa vào thứ ánh sáng nhập nhoạng nửa sáng nửa tối của cái giờ khắc chuyển giao ngày đêm đáng sợ cùng ánh sáng leo lét kì dị phát ra từ chiếc la bàn mà một trong hai người đang cầm mới lờ mờ thấy được đó là hai người đàn ông một già một trẻ.

“Ba, mình cứ đi vậy đến khi nào? Đã đi rất xa khỏi đường lớn rồi, trời lại đã tối, xung quanh lại vắng vẻ, có khi nào mình bị lạc không?”

Người trẻ hơn có vẻ sốt ruột, trán đã lấm tấm mồ hôi, cất tiếng nói. Người đàn ông lớn tuổi hơn không hề quay đầu lại, ông vẫn chăm chú tiếp tục đi về phía trước.

“Ba đã dạy con bao lần rồi hả Hậu? Phàm đã làm việc gì cũng không được nóng nảy, sốt ruột dễ khiến bản thân lầm đường đoán định sai sự việc. Chúng ta là đang đi cứu người, hấp tấp sẽ hỏng việc. Hơn nữa, ba nói rồi, đây không phải lần đầu ba đến đây.”

Nghe ba mình lên tiếng trách mắng như vậy, Hậu chỉ biết ngầm thở dài trong lòng mà không phản bác. Bởi vì dù sao, ba hắn, ông Vũ Văn Hùng cũng là một thầy phong thuỷ tài giỏi, nhìn đất nhìn sao là chuyện cỏn con, dù chưa đi qua đây bao giờ thì cũng khẳng định sẽ chẳng lạc đường nổi. Câu hỏi kia, chỉ là Hậu hỏi để xua tan cái không khí tịch mịch chỉ có tiếng ếch nhái kêu này mà thôi.

Nhiều người sẽ nghĩ, thầy phong thuỷ là một nghề nghiệp gần như thầy bói, hay chỉ là mấy tên bịp bợm biết được vài ngón nghề đặt cây, đặt cửa, đặt đồ, đặt hồ… trong nhà ngoài ngõ, rồi phán bừa thế nào là tụ khí tán khí có lợi cho gia chủ hòng nhận chút tiền sống cho qua ngày đoạn tháng. Như cái thời số hoá bây giờ, việc sinh viên học các môn liên quan đến kiến trúc nhà cửa cũng sẽ được giảng dạy kèm luôn môn phong thuỷ, nên chẳng mấy ai nhớ đến những ông thầy phong thuỷ ngày nào. Họ dần bị quên lãng, địa vị còn thấp hơn cả thầy bói xem chỉ tay kiếm được vài trăm ngàn một lần. Nhưng thật sự, thì mấy ai hiểu được, phong thuỷ hiện tại mà người đời biết được chỉ là một góc của một toà núi cao không thể nhìn thấy đỉnh? Những lời lẽ hoa mỹ khó hiểu từ vô số sách phong thuỷ tràn lan trên thị trường đa phần là không sử dụng được, chúng chỉ là trăng dưới nước, cầu vồng trong mây mà thôi. Nên, rất nhiều người dù đọc qua sách phong thuỷ, tự nhận vài năm nghiên cứu cũng thường xuyên mắc nhiều sai lầm nhầm lẫn đơn giản nhất. Ví dụ như Âm phần(1) với lại Dương phần(2). Hai thứ đó đều tốt, nhưng một cái là để táng người tích đức cho đời sau, còn một cái lại là để xây nhà, đền chùa miếu mạo cho người sống. Lẫn lộn hai cái thì không cần nói, âu cũng nhận ra đó có hậu quả khó lường.

Muốn hiểu thấu Phong thuỷ phải rành Âm Dương, phải tường Dịch số, phải có mắt nhìn thấu hiểu địa mạo đất đai, sông ngòi trời rộng, phải biết nhìn tinh tượng lẫn nhìn tướng mạo mà đoán mệnh. Thấu triệt tất cả rồi thì sẽ được gọi là Phong thuỷ sư(3) nắm vận mệnh thiên hạ trong tay, có thể bắt long mạch, trấn long huyệt, định tứ phương thần thú, tạo vua một nước, tiền của đầy nhà, con đàn cháu đống, cũng như ngược lại có thể trấn yểm khiến một nước vong, nhà cửa tan hoang, toàn tộc tận diệt.

Vừa nguy hiểm mà vừa mang lại may mắn như vậy, cho nên các Phong thuỷ sư xưa kia vừa được tôn sùng lẫn sợ hãi, không thiếu người bị vàng bạc che mắt mà bị lợi dụng phò tá hôn quân, hãm hại người khác hoặc bị truy sát đuổi tận giết tuyệt. Thế cho nên, phàm đã bước vào cửa phong thuỷ, được tôn Phong thuỷ sư thì chẳng ai không biết một luật bất thành văn là không thể nào dễ dàng chỉ đất, dâng đất cho bất kì ai, cũng không thể trấn yểm đất đai mà hại người. Một là do sẽ tổn hại âm đức ảnh hưởng phúc phận bản thân lẫn con cháu của chính người Phong thuỷ sư; hai là không phải bất kì ai cũng phận dày có thể nhận được, nếu phận mỏng đức không đủ lại khiến người ta ngồi trên cao nhận lộc nhận phước nhưng lại hại người hại mình cũng ảnh hưởng nặng nề đến Phong thuỷ sư.

Cũng vì vậy, trong giới Phong thuỷ sư mới có câu:

“Là Ân cứu lúc nạn tai,

Nhận Tình mà trọng cả đời không quên.

Lòng người có Nghĩa lớn lao,

Lỡ mà phải Luỵ dùng thân mà đền.”(4)

Bốn chữ Ân - Tình - Nghĩa - Luỵ(5), bất kì ai dù thành danh đã lâu hay mới nhập môn vào con đường Phong thuỷ địa lý đều phải thuộc nằm lòng. Có Ân với mình thì phải báo, có Nghĩa với mình hoặc với giang sơn xã tắc cũng phải khắc ghi trong lòng, chỉ đất lớn đất tốt giúp con cháu họ đời sau đời đời thịnh vượng cũng là việc nên làm. Còn có Tình , có Luỵ thì phải tuỳ duyên tuỳ phúc hẵng xem xét cho người ta đất đai thế nào, địa mạch ra sao, song còn phải luôn kề bên giúp người, chỉ bảo họ tích thêm đức để hưởng dụng đất đai dài lâu, tránh việc vì Tình, hãm Luỵ mà khiến người ta vạn kiếp bất phục nếu phúc mỏng đức cạn. Vì vậy “Tiên tích Đức, hậu tầm Long”(6) cũng là một câu châm ngôn nữa mà các bậc thầy phong thuỷ xưa răn dạy. Có nghĩa là trước phải tích phúc tích đức rồi mới tìm đất mà định mà kết.

Ông Vũ Văn Hùng hơn hai mươi năm trước cũng từng là một Phong thuỷ sư nổi danh khắp cả cái chốn Sài thành, không ai là không biết tiếng. Lúc ấy, người tìm đến ông nhờ ông chỉ đất xây nhà, an táng hay cải tạo mệnh huyệt nhiều vô số kể. Tiền bạc, rượu quý, nhà cao cửa rộng ông có được cũng là được người ta trả ơn mà có. Nhưng về sau, sau một sự kiện sai lầm mà do ông làm diễn ra, khiến lòng ông sinh thoái ý, bán nhà bán cửa, rửa tay gác kiếm không tiếp tục làm Phong thuỷ sư rồi dắt díu vợ con sang Mỹ sống.

Thế nhưng, bóng ma quá khứ luôn là thứ đeo đuổi ngươi ta đầy dai dẳng không buông bỏ được, cho dù bạn có chạy đến hang cùng ngõ hẻm, chân trời góc biển thì một ngày nào đó nó cũng sẽ tìm đến và khiến bạn chẳng thể nào thanh thản. Vì vậy, hiện tại, ông lại trở về Việt Nam, cũng như một lần nữa cầm chiếc la bàn phong thuỷ trong tay cũng là do liên quan đến vụ việc năm xưa ngày đó.

“Tới rồi!”

Ba tiếng sau, tầm chín giờ tối, ông Hùng đang đi đột ngột dừng lại, khiến Hậu đang đi phía sau đụng trúng vào ba mình đi phía trước, phải kêu khẽ một tiếng. Giơ ngón tay lên miệng ý bảo Hậu giữ im lặng, rồi ông Hùng chỉ ra phía trước mặt. Nhìn theo ngón tay ba mình, Hậu nheo mắt lại, hắn thấy phía xa xa tầm hai trăm bước chân là một ngôi nhà xưởng rất to nằm giữa một rừng cây rậm rạp, xung quanh có vài cột trụ cắm nghiêng ngả và hình như có cột dây nhợ gì đó đen đen nối chúng với nhau như để làm thành hàng rào, cũng chẳng loại trừ đó là một mớ dây leo cỏ dại mọc lan quấn lên.

Hậu khẽ quay đầu nhìn lại phía sau thầm cảm thấy quái lạ, sao mà đằng sau vẫn còn là ruộng nước cỏ dại trải dài, cây cối um tùm cũng chỉ cao hơn đầu gối một chút, phía xa xa vẫn còn thấy ánh đèn nhỏ bé của nhà dân mà đột nhiên giờ trước mặt xuất hiện cả một khu rừng tối tăm, lại có cả một cái nhà xưởng dường như bỏ hoang nằm giữa nó nữa chứ. Cứ như hắn và ba mình đang đứng giữa ranh giới nhân gian và một thời không nào đó, chỉ cần bước tới phía trước một bước là đã thoát ly khỏi nhân thế rồi.

“Ba…có thật là chú Lâm ở trong đó không? Sao mà con thấy…không ổn lắm. Hay là mình về đi, đợi sáng mai ban ngày thấy rõ ràng mọi thứ rồi lại quay lại xem xét.”

“Ba cũng muốn lắm, nhưng đêm nay ba mươi không trăng, đất trời u ám. Đối phương khó thấy được ta, tạm triệt đi được bất lợi của ta là chúng ta ngoài sáng, chúng lại trong tối. Hơn nữa, chậm phút giây nào, chú Lâm của con lại nguy hiểm chừng đấy. Nếu chú ấy mà có bề gì, thì cả đời này, lòng ba khó yên.”

“Nhưng mà có thật là chú ấy ở trong đó không ba?”

“Không sai được, ba không thể quên được nơi này đâu. Đây là nơi mà mọi chuyện đáng lẽ ra không nên bắt đầu. Tám chín phần mười là chú con trong đó. Cơ mà… vẫn có cái gì đó không đúng lắm.”

Ông Hùng giơ la bàn trong tay lên trước mặt. Trời càng tối, mặt la bàn càng sáng hơn, thế nhưng mũi kim giữa lòng la bàn lại quay mòng mòng một cách tà dị không dừng lại.

Từ xưa, phương vị trong phong thuỷ được khái quát trong một câu rằng : “Cát sơn từ cát vị, cát thuỷ hướng hung phương”. Mà Cát vị(7) và Hung phương(8) chỉ có la bàn mới định vị quan trắc ra được. Phong thuỷ quan trọng là phương vị, chỉ cần lệch đi một ly có thể khiến mọi thứ sai cả ngàn dặm. Thế cho nên, trong giới Phong thuỷ sư có một loại la bàn hay còn gọi là địa bàn dành riêng cho việc tìm đất định mạch có tên gọi là Tróc Long hay La Kinh. Chất liệu thì được làm từ gỗ Huyết Long hoặc gỗ Bồ Đề, dày tầm ba phân đến ba tấc. Hình dạng tròn như cái đĩa, dưới đáy mài nhẵn, mặt trên ở giữa có một cây kim chỉ hướng, xung quanh vẽ mười ba vòng nếu là Tróc Long và hai mươi bốn đến bốn mươi chín vòng nếu là La Kinh. Trong mỗi vòng tròn lại chia ra hai mươi bốn ô, vị trí ô của mỗi vòng lại lệch nhau một chút, nhưng đều có khắc chữ bên trong lần lượt theo kim đồng hồ quay là Nhâm, Tý, Quý, Sửu, Cấn, Dần, Giáp, Mão, Ất, Thìn, Tốn, Tỵ, Bính, Ngọ, Đinh, Mùi, Khôn, Thân, Canh, Dậu, Tân, Tuất, Càn, Hợi(9). Đặc biệt, la bàn còn thường được quết lên một lớp bột lân tinh, để Phong thuỷ sư định phương vị vào đêm không trăng hoặc ở những nơi u tối ẩm thấp.

La bàn phong thuỷ La Kinh là thứ tập trung nhị khí Âm Dương, lý của Bát quái Ngũ hành, số của Hà đồ Lạc thư, đại thành của thiên tinh quái tượng...Mất đi la bàn, thì coi như Phong thuỷ sư mất cả đi một cánh tay của chính mình.

Đột nhiên, Hậu nhận ra một điều kì lạ. Tiếng ếch nhái kêu suốt từ nãy giờ đã im bặt. Xung quanh chẳng có bất kỳ một âm thanh nào cả khiến hắn cảm tưởng dường như nghe được cả tiếng tim đập và mạch máu phập phồng dưới da mình. Kỳ lạ, quá sức kỳ lạ. Chẳng nhẽ, cái khu rừng âm u cùng cái nhà xưởng hoang phế trước mặt kia đã hút đi hết âm thanh xung quanh rồi, hay hoạ chăng là chẳng có động vật nào dám bén mảng đến gần đây? Dù đây chỉ là phần ranh giới?

Một cơn gió lạnh khẽ thổi nhẹ qua khiến Hậu rùng mình. Từ lúc xuống sân bay đến giờ, còn chưa đầy hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Ông Hùng cũng chẳng nói rõ cho hắn biết đầu cua tai nheo mọi thứ ra sao, chỉ biết rằng chú Lâm, anh em kết nghĩa của ba hắn đột nhiên mất tích, không liên lạc được cả tháng trời, người nhà cũng tìm không thấy. Nghĩ sự chẳng lành, ông Hùng bấm vài quẻ thấy điềm đại hung mà lại liên quan gì đó đến chuyện năm xưa liền tức tốc mua vé máy bay quay về Việt Nam.

Thật ra, ngay từ đầu ông Hùng cũng chỉ tính đi một mình, vì bản thân ông biết chuyện này quá mức nguy hiểm. Nhưng Hậu sau khi nghe chú Lâm của hắn có thể gặp chuyện, tuổi hai mươi là cái tuổi trưởng thành khí thịnh, lại quý mến hết mực ông chú luôn thương hắn vô điều kiện kia liền cứ nằng nặc đòi theo. Hết cách, ông Hùng đành phải dẫn hắn theo về với điều kiện là phải luôn luôn nghe lời ông.

“Thật đáng sợ…Điều ba lo lắng cuối cùng cũng xảy ra rồi…”

Ông Hùng đột ngột lên tiếng làm Hậu giật bắn cả mình.

“Hả…cái gì đáng sợ hả ba?”

“Trước đây, mảnh đất trước mặt chúng ta từng là một địa thế vô cùng tốt, có đại khí vận Phi long thăng thiên. Ai xây cất nhà cửa ở đây, xây xưởng làm ăn thì sẽ lên như diều gặp gió, con cháu đời đời hưởng phúc. Thế mà giờ đây, “rồng” ở đây lại bị khốn suốt từng đó năm tạo thành thế Khốn Long. Đó là còn chưa kể, chắc chắn có người đã đem người táng ở đây để trấn chết chỗ này, khiến long mạch suy vi và “chết”. Rồng chết sinh uế khí hủ bại, phong thuỷ lại còn bị phá hư sửa lại tạo thành địa thế “hữu chủ vô khách”(10).”

Nghe ba mình bảo trong ngôi nhà xưởng u tối trước mặt kia có mộ táng người chết, mồ hôi lạnh sau lưng Hậu chầm chậm chảy ra. Lúc rỗi rãi khi ở Mỹ, thỉnh thoảng nhớ nghề xưa, ông Hùng cũng chỉ bảo vài điều về phong thuỷ và dịch số cho hắn, chủ yếu để sau này hắn phòng thân, gặp dữ hoá lành. Vì vậy mà vừa nghe địa thế “hữu chủ vô khách” là hắn đã trừng mắt đầy sợ hãi. Kẻ nào độc ác đến mức lại khốn chết long mạch, tổn hại thiên địa rồi lại cải tạo một nơi đại khí như vậy trở thành một trong những địa hình thập tiện chứ. Bọn chúng muốn làm gì? Không biết như vậy không chỉ tổn hại thiên hoà, còn tổn hại luôn âm đức của bản thân mình sao?

Cúi xuống nhặt một hòn đá, ông Hùng ném nhẹ nó hướng xuống lối đi đến nhà xưởng trước mặt. Im lặng. Hoàn toàn im lặng. Không hề có một tiếng động nào dù là nhỏ nhất chứng tỏ hòn đá đã rơi xuống đất. Nhìn con đường ngoằn ngà ngoằn ngoèo, xung quanh mọc lên vô số ụ đất không theo trật tự xen lẫn với bụi cây cùng các thân cây cao lớn, ông Hùng thở hắt ra một tiếng.

“Quả thật đúng là do một đồng môn Phong thuỷ sư tạo ra rồi, chứ không phải vô tình. Hậu, con có nhận ra phía trước là gì không?”

“Thế kia…con nhìn quen quen…”

“Đúng vậy, chúng dùng chính thứ độc hữu của Phong thuỷ sư chúng ta đối phó chúng ta. Là “Phân kim định huyệt”.”

Phân kim định huyệt là thứ mà Phong thuỷ sư nào cũng biết. Có như vậy, người Phong thuỷ sư mới có thể nắm định được mệnh huyệt, đất đai, sử dụng hay lợi dụng nó và bất kì môn phái Phong thuỷ nào cũng có bí truyền Phân kim định huyệt của riêng mình. Dòng họ Vũ của Vũ Văn Hùng cũng vậy.

Cách đây hơn sáu trăm năm, dưới thời Lê Sơ, có một bậc thầy Phong thuỷ sư lừng lẫy khắp cõi nước Nam không ai không biết. Mọi người kính trọng gọi ông là Tả Ao tiên sinh. Cái tên Tả Ao đấy, thật ra cũng chẳng phải tên thật, mà dân chúng dùng tên gọi nơi ông sinh ra để gọi ông. Tên thật của Tả Ao là Vũ Đức Huyền. Đúng vậy, họ Vũ, Tả Ao chính là ông tổ của dòng dõi Phong thuỷ sư nhà Vũ Văn Hùng.

Đáng lý ra Phong thuỷ sư nhà họ Vũ sau đời Tả Ao phải tuyệt duyệt từ lâu rồi. Duyên cớ là vì cả đời ông không màng danh lợi, lấy vợ sinh con rồi bỏ đi lang bạt khắp chốn giúp người này, làng kia…vậy mà ngay cả chính con mình nghèo khổ bần hàn ông cũng không giúp được. Đến khi về già, trở về quê cũ thấy trong nhà ngoài ngõ tan hoang, ông buồn bã mà sinh bệnh không lâu sau thì mất, chỉ kịp để lại cho con cháu tài liệu về sở học cả đời của mình gói gọn trong ba cuốn sách cùng bộ dụng cụ phong thuỷ của mình.

Con của Tả Ao thấy sau khi cha qua đời cũng không để lại gì đáng giá, trong nhà lại túng quẫn đành sao chép lại hai cuốn tuyệt học phong thuỷ của cha mình rồi đem ra ngoài bán cho các Phong thuỷ sư khác kiếm chút tiền còm. Duy chỉ bộ dụng cụ phong thuỷ đặc biệt của Tả Ao và cuốn sách trúc thứ ba hướng dẫn sử dụng chúng là không đem ra ngoài, cho nên mới còn để đời đời truyền xuống và ngoài nhân gian cũng chẳng ai biết toàn bộ tuyệt học của ông không chỉ gói gọn trong hai tập sách.

Về sau, dòng họ Vũ ngày càng tàn lụi, rồi có thời điểm gần như biến mất khỏi dòng lịch sử không còn ai nhớ đến vì không một ai đủ sức hiểu thấu cả ba cuốn sách ông tổ mình để lại. Cho đến thời ông nội của Hậu, một người thông minh cơ trí nhìn thấu được huyền cơ trong sách của Tả Ao mới một lần nữa đem cái danh Phong thuỷ sư của gia tộc đem ra ánh sáng. Ấy vậy mà cứ như một lời nguyền, chỉ đến đời ba của Hậu, chuyện xấu lại xảy ra, khiến ông Hùng không thể nào không phong lại Phong thuỷ dụng cụ của gia tộc rồi rửa tay gác kiếm.

Đó là những gì mà từ bé Hậu hay được nghe ba mình kể. Thật ra thì với hắn, hắn cũng chẳng quá để tâm ba cái chuyện phong thuỷ này nọ gì. Trước giờ, hắn học phong thuỷ từ ba mình cũng chỉ để khiến ông Hùng vui chứ hắn cũng chẳng mặn mà gì lắm. Thời đại này là thời đại nào rồi? Người ta có lẽ sắp tìm kiếm được một vũ trụ mới ngoài kia rồi mà còn tin vào chuyện đất đai khiến gia đạo, vận số người ta thay đổi ư? Nói đến ma quỷ thì hắn còn tin, ba tổ chức tôn giáo thờ ma quỷ, mấy video quay cảnh quỷ nhập tràng trên vài cái deep web hắn vẫn tò mò tìm xem thì còn đáng tin và đáng sợ hơn. Ví như chuyện ngôi nhà xưởng trước mặt có thể có chôn người chết trong đó, vào mà mở điện thoại ra quay được ma quỷ rồi up lên youtube biết đâu lại nổi tiếng.

Nhưng Hậu thấy ba hắn nghiêm túc thì cũng biết chuyện thật sự có điềm chẳng lành. Với hắn, ba hắn luôn là người đàn ông hoà nhã, gặp chuyện không hoảng loạn, nhưng giờ lại nghe cái giọng tràn đầy căng thẳng cùng những giọt mồ hôi to như hạt đậu lấp loáng trên trán ông cũng khiến hắn hiểu rõ, đêm nay mọi chuyện thật sự chẳng lành. Rốt cuộc thì ba hắn còn chưa kể hắn nghe chuyện gì? Cái nơi tràn đầy bí hiểm thế này là sao đây?

“Có vẻ đúng thật là phải dùng thuật Phân kim định huyệt bí truyền của gia tộc mới qua được rào cản đầu tiên này. Thật quái lạ, mọi bí thuật của ông tổ gia tộc ta không hoàn toàn lộ ra ngoài, nhất là với phần sau liên quan đến bí thuật, thì làm sao bọn chúng lại biết mà dùng chính nó để đối phó chúng ta chứ? Hậu, con có nhớ ba từng dạy gì về bí thuật Phân kim định huyệt độc hữu của gia tộc nhà mình không?”

“Con còn nhớ kĩ mà ba. Phân kim định huyệt của gia tộc chúng ta có tên gọi là Thiên phương định long châm. Con nhớ là bài tập kiểm tra độ khó cao nhất mà ba từng giao cho con vượt qua cũng là Phân kim định huyệt trên địa hình mô hình núi sông. Nhưng mà, cái lần ba dạy con, bất quá ba chỉ dùng một chậu cát lớn mà thôi. Đằng này, bài kiểm tra trước mắt chúng ta không khỏi quá bự rồi đi. Cũng mấy trăm bước chân chứ ít gì.”

Thiên phương định long châm đúng như tên gọi, là dùng kim định huyệt mạch, long khí. Thiên phương ở đây ý chỉ ngàn phương hướng, không chỉ riêng mỗi bát phương tứ trụ xung quanh mà còn chỉ trên trời dưới đất, tinh tượng, nhân mạch…Trong sách cổ Tả Ao để lại có ghi chép rằng khi mà Tả Ao muốn xuất sư, thầy dạy phong thuỷ cho ông đã ra một bài kiểm tra, vượt qua được, mới được phép rời khỏi sư môn để trở về nhà. Ông ta dùng đại đất cát ven đường tạo ra một mô hình núi sông hùng vĩ rồi chôn xuống đó một trăm đồng tiền, đoạn bảo Tả Ao dùng một trăm cây kim nhìn sông đoán núi, định huyệt định mạch rồi cắm kim xuống, kim xuyên qua lỗ giữa đồng tiền là đạt. Tả Ao châm được chín mươi chín đồng tiền, chỉ có đồng thứ một trăm thì lệch ra ngoài một chút. Sư phụ của ông hài lòng, liền cho ông xuất sư. Nhưng mà với Tả Ao, như vậy là không hoàn hảo. Ông bèn dùng mấy chục năm để hoàn thiện sai sót của mình. Kết quả là cho ra đời một bí thuật Phân kim định huyệt độc đáo chỉ có ông sở hữu đó chính là Thiên phương định long châm.

Bí thuật này bao gồm bảy loại biến hoá là định, khai, toả, biến, bẫy, đổi, khống. Duy chỉ có điều nếu trực tiếp dùng tay và khí của bản thân để điểm xuống đất đai long mạch sẽ đụng chạm đến địa khí, ảnh hưởng rất lớn đến nhân khí của người định huyệt, đó luôn là điểm yếu của các Phong thuỷ sư từ ngàn xưa. Thế cho nên Tả Ao sau bao ngày vắt óc suy nghĩ cuối cùng nghĩ ra cách dùng ngoại vật kết hợp bí thuật để thay mình định huyệt, chỉ khi vạn bất đắc dĩ không còn cách nào khác mới phải dùng đến tay và nhân khí của mình. Ông đào lên một thỏi vàng ròng nằm sâu trong một long mạch dương phần đã “ngủ” say, luyện nó qua lửa bảy bảy bốn chín ngày, tạo thành tám cây kim lớn gấp bốn cây kim khâu, dài tầm nửa gang tay một người trưởng thành. Ở trên mỗi cây kim vàng ông cho khắc mỗi cây một chữ trong tám quẻ dịch, lần lượt là Càn, Khôn, Cấn , Khảm, Tốn, Chấn, Ly, Đoài.

Tiếp sau đó ông tự mình gieo quẻ, theo quẻ nhận được mà tìm đến một động tiên ở sâu trong động Phong Nha. Ông liền đi sâu vào trong, vượt qua bao hung hiểm mà tiến đến được động tiên trong truyền thuyết, nhưng kết quả mà ông thấy lại không phải động tiên mà người dân sống xung quanh đồn đại, mà là một toà âm phần cực lớn. Nơi này có một long mạch cũng đang ngủ say như toà dương phần đào được thỏi vàng ròng kia, nhưng mà rồng ở đây lại là một con rồng âm, một con rồng ma.

Thế đất nơi này, ai mà táng ở đó, chưa nói đến đời sau tán gia bại sản sống tha hương, ngay cả người được táng âm hồn cũng không thể nào siêu thoát mà bị âm long này nuốt chửng. Ở chính giữa âm phần có một cái hồ nhỏ, giữa hồ có một cái bệ đá, trên đó có cắm tám cây kim ngọc vừa hay kích cỡ cùng bằng tám cây kim vàng mà Tả Ao đã chế tạo. Tám cây kim ngọc này theo Tả Ao suy đoán, có lẽ là một khối ngọc tự nhiên, nhưng sau khi bị nước nhiễm âm khí trên thạch nhũ ở mái vòm động âm phần này nhỏ xuống “thuỷ luyện” cả ngàn vạn năm mới hình thành như vậy. Ông liền cẩn thận nhổ chúng ra, gói lại bằng vải đỏ rồi mau chóng rời khỏi đó.

Sau, cũng như tám cây kim vàng, Tả Ao cho khắc lên tám cây kim ngọc tám chữ trong câu đầu tiên của cuốn Thiên tự văn của Vương Hi Chi. Tám chữ lần lượt là Thiên, Địa, Huyền, Hoàng, Vũ, Trụ, Hồng, Hoang.

Kết quả mười sáu cây kim, tám cây kim vàng dùng định dương phần, tám cây kim ngọc dùng định âm phần liền giúp cho bí thuật Thiên phương định long châm của Tả Ao từ đó về sau trở nên hoàn hảo không còn chút tì vết.

Đưa chiếc la bàn Tróc Long cho Hậu cầm, ông Hùng lấy một cặp bao tay làm bằng da mang vào, kế tiếp ông lấy ra một chiếc hộp gỗ nâu cũ từ chiếc túi vải đeo chéo bên hông mình. Ông mở nắp, lấy một gói vải đỏ được cuộn kĩ càng nằm gọn trong lòng bàn tay, rồi đóng hộp gỗ cất lại vào túi. Lần mở từng lớp vải , một luồng ánh sáng xanh lạnh lẽo như ánh sáng từ địa ngục đột ngột hắt ra xung quanh, ám lên mặt của ông Hùng một màu sắc rùng rợn. Nhiệt độ xung quanh dường như giảm xuống, khiến Hậu không tự chủ mà rùng mình. Hắn chẳng cần nhìn cùng biết, thứ mà ba hắn vừa lấy ra nhất định là tám cây kim ngọc dùng để định âm phần độc truyền của gia tộc. Đây cũng là lần thứ hai hắn nhìn thấy chúng, ông Hùng cũng chỉ cho hắn coi cả mười sáu cây kim một lần từ lúc bé, còn từ đó về sau, ông không bao giờ mở chúng ra nữa. Lúc dạy phong thuỷ cho hắn, ông cũng chỉ cho hắn dùng kim khâu, đá sỏi bình thường mà thôi. Hôm nay xem ra, đúng là ông ba hắn không còn cách nào khác phải dụng đến tuyệt kỹ lẫn công cụ gia truyền rồi.

Con đường phía trước mặt của ba con Hậu phải đi qua để đến xưởng vô cùng ngoằn ngoèo. Lại có nhiều mô đất nổi lên như đồi núi thu nhỏ, những đường rãnh lòng vòng toả muôn hướng như sông ngòi, lại còn có lùm cây bụi cỏ như rừng núi. Đây rõ ràng là một cái bẫy Phân kim định huyệt. Nếu người lơ mơ không biết gì bước đại vào đạp trúng tử huyệt thì có trời mới biết chuyện gì xảy ra. Chỉ có người rành về phong thuỷ, các Phong thuỷ sư từng vượt qua bài kiểm tra định huyệt trên mô hình mới nhận biết và dễ dàng vượt qua. Nhưng Hậu trộm nghĩ, chẳng lẽ những kẻ nguy hiểm mà khiến cho cả ba hắn phải lo ngại lúng túng lại sắp đặt một cái bẫy sơ đẳng như vậy ư? Là để kiểm tra bọn hắn coi có đúng là Phong thuỷ sư hay không hay là đang đùa cợt coi thường? Hoặc giả chỉ là ngăn ngừa người lạ ngoài nghề đi vào? Dù câu trả lời có thế nào đi nữa, Hậu cũng cam chắc một trăm phần trăm rằng hắn có dự cảm chẳng lành về chuyện này. Hắn muốn mở miệng khuyên ông ba mình nên đi khỏi lần nữa, nhưng lại nhìn thấy sự kiên quyết pha lẫn căng thẳng kia của ông, hắn biết chẳng thể lay chuyển được gì. Hơn nữa, chú Lâm của hắn hiện sống chết chưa rõ, mà ông Hùng còn khăng khăng là chú ấy ở trong cái nhà xưởng âm u kia thì đành phải vào thôi.

“Đi sát theo ba! Nhớ lại kĩ những gì con học, đừng đi sai một ly.”

Nói xong, ông Hùng lập tức tiến về phía căn nhà xưởng mà đi. Đi một bước, ông lại vung tay phóng một cây kim cắm xuống một vị trí dưới đất trước mặt. Có khi nơi cắm đó là một ụ đất, một khe đất bằng phẳng hay nhỏ hẹp…dù là cắm vào đâu, nhưng chỉ khi nghe được tiếng chuông nhỏ vang lên, ông Hùng mới rút kim lên bước tiếp. Ra là ở mỗi đuôi kim, đều có buộc một sợi chỉ đỏ, ở giữa sợi chỉ có treo hai cái chuông. Mỗi khi cắm kim trúng vào địa huyệt thì một cái chuông rung lên. Còn nếu rung cả hai tức là ở đó không hề có huyệt , chạm trúng tử huyệt rồi. Cũng nhờ vào sợi chỉ, mà ông Hùng không cần cuối xuống rút kim lên, ông chỉ cần khẽ lắc bàn tay, kéo nhẹ sợi chỉ, cây kim đã trở về trên tay mình.

“Ba có thấy gì lạ không ba?”

“Con cũng nhận ra rồi à?”

Ông Hùng hơi ngừng lại, khẽ quay đầu ra sau nhìn Hậu.

“Đúng vậy. Căn nhà xưởng chỉ cách chúng ta tầm hai trăm bước. Dù chúng ta đi ngoằn ngoèo nãy giờ theo địa thế thì cũng không lí nào đã mười lăm phút trôi qua cũng chưa đi được nửa đường tới gần cái căn xưởng ấy. Huống hồ….”- Hậu cau mày nhìn lại đằng sau mình rồi nói tiếp. - “Khoảng đường chúng ta đã đi qua…nhìn lại thì đã bằng hai trăm bước chân rồi đấy. Có nghĩa là đáng lý chúng ta đã phải đến được nơi cần đến rồi.”

“Có vẻ, cái bẫy Phân kim định huyệt chỗ này không đơn giản chỉ là ngăn cản người bước vào mà còn bẫy người vào trong. Ban đầu, ba cũng chỉ nghĩ bọn chúng đặt một cái bẫy đơn giản này ở đó, chỉ để ngăn cản người ngoài nghề bước vào. Cạm bẫy ghê gớm thật sự là ở bên trong. Nhưng có lẽ ba sai rồi.”

“Ba…”bọn chúng” mà ba nhắc đến nãy giờ rốt cuộc là ai? Con không hiểu gì cả.”

“Thôi được rồi. Đã cho con theo đến đây rồi, mà không nói cho con biết tất cả thì cũng không đúng chút nào. Chúng ta cứ đi tiếp đi. Vừa đi ba sẽ vừa kể cho con nghe mọi chuyện.” - Quay đầu phóng một cây kim xuống một chỗ, ông Hùng tiếp tục - “Mọi chuyện xảy ra cách đây hơn ha…”

Hậu đang im lặng lắng nghe ba mình nói vừa cúi đầu nheo mắt nhìn kĩ những chỗ ông Hùng vừa đặt chân đi thì chợt nghe mọi thứ im bặt. Giọng của ba hắn dường như biến mất đột ngột. Hắn ngẩng phắt đầu lên thì chẳng thấy ông Hùng đang đi trước mặt đâu nữa, cứ như ông ấy đã tan biến vào cõi hư không vậy.

Hậu trong lòng mặc dù hốt hoảng, nhưng vẫn biết không thể hoảng loạn di chuyển bậy bạ lúc này, mọi thứ đã chứng tỏ cái bẫy sơ cấp này không hề bình thường. Hắn cũng chẳng thể lớn tiếng gọi ba hắn, lỡ đâu đánh động thứ gì đó trong căn nhà xưởng kia thì sao? Hay là chẳng lẽ từ nãy đến giờ bọn hắn vẫn bị theo dõi mà không biết?

Hậu cố gắng bình tĩnh rồi nhìn xung quanh tìm kiếm chút dấu vết xem ba hắn đã biến đi đâu. Nhưng, khi hắn vừa xoay đầu nhìn qua phía bên vai trái thì cơ thể hắn cứng ngắc lại. Cái lạnh vô hình từ đâu hiện ra, bủa vây thấm đẫm tâm hồn và trí óc khiến hắn không thể cục cựa thân mình.

Sát ngay cạnh bên mặt Hậu, hiện ra giữa không gian đen tối, có một cái mặt người mang một màu trắng xanh nhợt nhạt hiện ra đang nhìn chằm chằm xoáy sâu vào đôi mắt hắn, rồi từ từ nó nhoẻn miệng cười.

Một nụ cười vòng cung kéo tận đến mang tai.

_________________________________

Chú thích :

1. Âm phần : người xưa quan niệm, nơi đất kết âm có thể táng người chết khiến con cháu đời sau vinh hiển thì gọi là âm phần.

2. Dương phần : người xưa quan niệm, nơi đất kết dương, có thể xây nhà, đình chùa, trấn, thành...để tụ khí, tụ mạch giúp người sống tốt hưng thịnh thì gọi dương phần.

3. Phong thuỷ sư : chức danh hư cấu dùng trong truyện mà tác giả tự nêu, hoàn toàn không liên quan với bất kì chức danh nào khác nếu có thật ngoài đời.

4. Bài thơ không có thật trong lịch sử, do tác giả tự viết.

5. Ân - Tình - Nghĩa - Luỵ : Những trường hợp ngoại lệ thầy Phong thuỷ giúp đỡ người khác, chỉ đất cát hung.

Ân : là người có ân với thầy phong thuỷ.

Tình : là người trải qua hoạn nạn với thầy phong thuỷ.

Nghĩa : là người có đại nghĩa với xã tắc, xã hội hay với thầy phong thuỷ.

Luỵ : là người mà thầy phong thuỷ từng dựa vào để sinh tồn.

6. Tiên tích đức, hậu tầm long : Tổ tiên người Việt từ ngàn xưa luôn dạy con cháu rằng muốn thành công thì phải có đức. Ngay cả trong giới phong thủy chân chính, vốn có thể dựa vào địa lý hay long mạch mà cải mệnh, vẫn luôn lưu truyền câu nói: “tiên tích đức, hậu tầm long”. Văn hóa cổ truyền đó ngày nay ít người thật sự tin tưởng, nhưng có không ít câu chuyện có thật được ghi chép lại là minh chứng cho điều này, trong đó phải kể đến chuyện hai anh em nhà họ Quách thời Lê sơ.

Trong thời Lê Sơ ở xã Thái P húc, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình có một người họ Quách tính tình thật thà chất phác, không tranh cãi với ai. Một lần khi cuốc đất, anh ta tìm thấy một đĩnh vàng. Vốn tin vào đạo lý của trời đất, nghĩ rằng số vàng này không phải của mình nên không thể lấy được, nhưng không biết của ai, người họ Quách liền đem cất riêng ở một chỗ.

Mấy tháng sau có một người từ phư ơng Bắc đến chỗ khu đất ấy kêu khóc, người họ Quách đến hỏi thì người khách đáp rằng tổ tiên có của để lại ở chỗ này. Người họ Quách bèn trả lại số vàng đã đào được.

Người khách cảm tạ nói: “Tôi biế t qua địa lý, ở đây có hai ngôi huyệt tốt: một ngôi đời đời kế tiếp làm công khanh; một ngôi đỗ Tiến sĩ một đời. Ông thích ngôi nào, tôi sẽ để giúp để báo ơn đức.”

Người họ Quách thật thà nói rằn g: “Nhà tôi nhiều đời nghèo túng, có đâu dám mong quá phận định, chỉ muốn con cháu một đời đỗ Tiến sĩ, công danh hiển hách, thế là đủ rồi.” Vị khách liền để đất giúp.

Người họ Quách đó chính là ô ng nội của Quách Đình Bảo. Quách Đình Bảo một vị danh thần tài đức của nhà Lê Sơ, thông minh nức tiếng sánh ngang Lương Thế Vinh thời bấy giờ. Em Quách Đình Bảo là Quách Hữu Nghiêm cũng là một vị quan tài hoa. Hai anh em ông thật sự ứng với câu nói: “…chỉ muốn con cháu một đời đỗ Tiến sĩ, công danh hi ển hách, thế là đủ rồi.”

7. Cát vị : phương vị, địa điểm mang lại điềm lành

8. Hung phương : phương vị, địa điểm mang lại điềm x ấu.

9. 24 hướng trên La bàn thuộc 12 địa chi, 8 thập ca n, 4 bát quái.

10. Một trong mười Thập tiện, loại địa hình xấu, k ỵ an táng. Hữu chủ là có huyệt mộ, vô chủ là không có án sơn triều sơn.

Bạn đang đọc truyện Cầu Sinh của tác giả Catto Librae. Tiếp theo là Chương 2: Ma che mắt, quỷ đưa đường