Sử sách ghi lại bao nhiêu lần đất nước thịnh suy, bao nhiêu biến động bằng ngòi bút xuân thu lạnh giá. Hàng nghìn, hàng vạn mạng người bị xoay vần cùng thời thế, rốt cuộc chỉ được lưu lại trong vệt mực vô danh trên trang giấy. Triều đại Quang Minh từ buổi bình minh đã vô vàn sóng gió. Nhờ triều thần phế Ưu Đàm Đế mà lập lên, Quang Minh Đế sớm bị rơi vào lòng chảo lửa của các phe cánh hoàng cung.
Thái Trí Sơn dấy lên vài cuộc nổi loạn nhỏ rải rác quanh cách châu đông bắc hòng tung hỏa mù với âm mưu đánh vào kinh đô, nhưng kế hoạch sớm bị triều đình phát hiện. Quang Minh Đế sai võ tướng Lâm Hảo điều binh đến Sơn Khởi làm cứ điểm trọng yếu, đồng thời với sự trợ giúp của Hoa Đắc Trung khai phá và kiểm soát đường mòn Hoạt Sơn. Quân lương, viện binh nhờ tuyến đường này mà được vận chuyển suôn sẻ giữa bốn châu đông bắc.
Thái Trí Sơn không vì thế mà ngưng làm mưa làm gió. Quân hắn vây Bàn Thành suốt những tháng mùa khô, khiến dân chúng lầm than. Lâm Hảo bất chấp xuất binh đánh Bàn Thành, một hành động khiến quần thần trong triều tranh cãi. Quang Minh Đế muốn giảng hòa, tuy chiếm được Bàn Thành vẫn xử tội Lâm Hảo. Không ngờ điều này lại khiến hoàng cung chia rẽ nhiều hơn, kết cục là Đinh Liệt cùng phần lớn quan lại ly khai khỏi thế lực Quang Minh Đế, dấy quân chiếm cứ hai châu phía tây.
Trong cảnh rối ren, ngai vương của Quang Minh Đế lung lay dữ dội, sớm muộn gì cũng có một kẻ đứng lên bứt dây động rừng. Ít ai ngờ được kẻ đó lại là Thẩm thái hậu. Sau khi Ưu Đàm Đế bị hành hình, Thẩm Thái hậu từ bỏ rèm châu trở về quê nhà, vì là cô của Quang Minh Đế nên chỉ bị phế truất thành quận chúa Hoang Châu. Không ngờ bà bí mật biên thư tụ hội ba mươi quan thần trong triều, tố cáo Trương Hữu và Khu ma sứ, tức cánh tay phải của Quang Minh Đế chuyên quyền. Quang Minh Đế hứng chịu đủ mọi tai tiếng nhưng vẫn không dám làm gì Thẩm thái hậu, bèn biên thư cầu cứu lục bộ, đặc biệt ráo riết gọi Hoa Đắc Trung sung quân đến kinh đô.
Hoa Đắc Trung không trả lời lệnh này.
Hai tháng trôi qua trong dầu sôi lửa bỏng. Thẩm Thái hậu ở Hoang Châu thế lực lớn dần, Hoa Đắc Trung mượn danh Quang Minh Đế khống chế bốn châu đông bắc nhưng tin tức về kinh thành lại nhỏ giọt, Khu ma sứ bắt đầu mất kiên nhẫn. Bất chấp sự van nài của Quang Minh Đế, họ sai người khích chiến Hoang Châu, bắt giam Thẩm thái hậu. Sau đêm, thái hậu qua đời trong ngục.
Giờ phút này, tứ phương khởi binh.
Đinh Liệt phía tây, Thái Trí Sơn vùng trung du đã không thần phục từ lâu, nhưng mặc dù có kẻ nghi ngờ hành tung từ trước, trung ương vẫn chẳng lường được sự hùng mạnh của Hoa Đắc Trung ở đông bắc. Nắm trong tay phần lớn cấm quân, mượn binh của Sa Tây, lại được sự hậu thuẫn của một binh đoàn bí ẩn, tiếng tăm của hắn lan như lửa rừng mùa khô.
Thế giằng co dai dẳng năm năm. Trong năm năm đó, Hoa Đắc Trung đánh bại Thái Trí Sơn, dần dần gói bàn tay mình quanh kinh đô. Quang Minh Đế ngồi trên ngai vàng lòng như lửa đốt, chỉ biết trông cậy vào số trung thần ít ỏi của mình, trong đó có Vũ Triết Đình đã được cất nhắc làm Thái sư. Khi Hoa Đắc Trung dẫn binh tới cửa, Vũ Triết Đình ép Quang Minh Đế nhường ngôi cho hắn.
Hoa Đắc Trung xưng vương trong tình thế mập mờ, nhiều kẻ không phục. Nhưng trong mắt hiền giả, vương triều họ Thái thế là diệt vong, cho dù người đứng trên ngai kia là ai đi nữa cũng không thể gầy dựng lại thanh danh cho dòng tộc này. Như Đinh Liệt lập Thái Viễn, khát vọng khôi phục triều đại nhà Thái, kết cục vẫn bị họ Hoa đánh bại.
Một năm sau khi Hoa Đắc Trung lên ngôi, Vũ Triết Đình lại ép hắn nhường ngôi, lần này cho con trai Vũ Triết Khởi, lập nên triều đại nhà Vũ. Sử sách gọi năm tại vị của họ Hoa là Kiến Văn, Hoa Đắc Trung tự xưng Hải Sơn Vương trong văn tự, nhưng với bá tánh đương thời, có lẽ hắn không bao giờ muốn làm vua.
Có kẻ bảo, thực chất Hoa Đắc Trung vốn chẳng tham vọng đứng đầu thiên hạ, và việc nhường ngôi này đã được sắp đặt từ trước. Đừng quên, hắn từng cấu kết với Vũ gia lật đổ Quang Minh Đế.
Người đời còn kể lại, sở dĩ Hoa Đắc Trung tự thấy mình không xứng đáng với ngôi vua là vì để đạt được thành tích vẻ vang này, hắn không những dựa dẫm vào ngoại thích là đạo quân Sa Tây mà còn mượn thần lực của các tộc hồ ly phía nam. Người đứng đầu, nghe nói, là một hồ ly hùng mạnh nhưng tiếng tăm mờ mịt. Lúc Hoa Đắc Trung đánh vào kinh đô, không ít kẻ nhìn thấy bóng một người khôi giáp đứng trên đỉnh tháp Vấn Thiên, tay cầm long bào sờn cũ của Ưu Đàm Đế, tay kia giơ cao bảo kiếm, khí lực tràn trề, hào quang ánh tím rạng ngời. Nhiều quan lại trong triều quả quyết hắn là một quan tứ phẩm thuộc Lễ bộ tên Bạch Thiên Cơ, có lời đồn cũng là sủng thần của Ưu Đàm Đế. Nhưng ngoại trừ cái vai trò không mấy vẻ vang đó ra, hắn không có thành tích gì nổi bật.
Sau khi Hoa Đắc Trung lên ngôi, dư đảng hồ tộc cũng biến đâu mất biệt. Cái tên Bạch Thiên Cơ chỉ được nhắc thêm một lần nữa trong miệng lưỡi dân gian, bên cạnh cái tên Đào Tuyết Kỷ nay đã được chính thư minh oan. Chính thư ghi lại, Đào Tuyết Kỷ thực chất qua đời trước khi được phong quý phi, còn kẻ đội lốt nàng là một cung nữ vô danh. Không khó để vài người nghi ngờ “cung nữ” này chính là hồ ly Bạch Thiên Cơ, nhưng với những người khác thì đây lại là tin đồn thất thiệt. Có điều liệu chi tiết này còn ý nghĩa gì nữa hay không? Bạch Thiên Cơ chỉ là một hình bóng mờ nhạt tô điểm thêm cho câu chuyện hùng tráng xoay quanh Hoa Đắc Trung, một kẻ lắm người hận, cũng lắm người kính.
Có điều, câu chuyện về họ Hoa cũng sớm đứt đoạn. Sau khi bị phế, Hoa Đắc Trung trút bỏ mọi danh hiệu, lui về ở ẩn. Vài sách bảo hắn an cư tại Hoang Châu, uống rượu đề thơ, không còn quan tâm đến thế sự nữa.
Cuộc chiến loạn kéo dài ngót nghét mười ba năm, kết thúc vào thời khắc Vũ Triết Khởi khoác long bào, nhận quyền trượng như ý, xưng làm Tân Khởi Đế. Từ dạo đó, thiên hạ dần dần bình ổn.
Một chi tiết mà ít được chú ý đến bởi những sử gia đào sâu vào cuộc nội loạn, chính là việc trong những năm đầu khói lửa, các châu ở cực bắc tạm thời được yên ổn nhờ có kỵ binh Bắc Thổ bảo vệ. Triều Dương, Thiển Dương là cứ điểm giao thương, cư dân ở đây tuy thiếu thốn nhưng không đến nỗi bị chiến tranh giẫm nát. Nhưng khi Bàn Thành bị vây, nạn dân từ phương nam đổ lên từng chặp gây ra nhiều mùa đói kém, mối liên kết giữa họ và trung nguyên lơi dần. Thừa dịp, Bắc Thổ thu phục hai châu cực bắc, phải mấy năm sau khi Tân Khởi Đế lên ngôi mới nhượng trở lại.
Kể từ lúc Ưu Đàm Đế bỏ mạng ở ải Thác Quan, thấm thoát hai mươi năm đã trôi qua.
Một thiếu nữ mười bốn, mười lăm tuổi mặc áo đạo đồng đi thong dong trên mặt đất đầy tuyết. Đang giữa tháng giêng, Triều Dương trắng xóa, từ cửa sổ những dãy nhà thưa thớt ánh lên màu đỏ hồng của bếp sưởi, các sạp bán áo lông thú, dầu, nhang đèn mở hàng từ sớm. Thiếu nữ vừa đi vừa nhẩn nha que kẹo hồ lô trên tay, mắt thơ thẩn nhìn về phía chân trời xanh xám đằng sau những hàng cây trụi lá xa xa. Cuối cùng, cô bé dừng chân trước một tiền trang, đẩy cửa vào.
Độ nửa giờ sau, cư dân Triều Dương lại thấy đạo đồng nọ nhởn nhơ đi về hướng ngược lại. Nó ghé mua một vòng ngọc đeo cổ từ một hàng đồ thủ công Bắc Thổ, rồi lại mua thêm một cân dầu. Nó đi, đi mãi, đến ngoại ô Triều Dương, trong thoáng chốc hai bên đường đã thưa đi nhà cửa, chỉ còn những hàng dương liễu lòa xòa ven các ao nước lạnh, xen kẽ những bụi trúc xanh vàng. Cuối cùng, nó dừng chân ở cổng nhật nguyệt dẫn vào một đạo quán nho nhỏ nằm lọt giữa một hoa viên thanh tĩnh. Đạo quán này vốn là của một lão chân nhân hiệu Trí Minh Tử, sau làn sóng nạn dân có nhận thêm vài đệ tử.
“Sư phụ, con về rồi.”
Đáp lời tiếng gọi của nó là một đạo trưởng cao lớn, tuổi gần ngũ tuần, tay vẫn cầm bút. Cư dân Triều Dương đều biết tên y là Tần Nam Vinh, ngụ tại đây kể từ thời chiến loạn.
Đạo đồng thiếu nữ tên Thủy Tiên chắp tay trước tượng Huyền Thiên xá vài cái, rồi đến trước cửa dẫn vào chính thất. Nó ném que kẹo không xuống chân, rồi trao tay Tần Nam Vinh bình dầu lẫn tờ ngân phiếu.
“Trời lạnh, con đừng có ở ngoài lâu quá.”
Thủy Tiên vuốt tuyết khỏi tóc, nói:
“Con muốn thăm phố phường Triều Dương lần cuối trước khi đi.”
“Con thăm ‘lần cuối’ đến nay là lần thứ mười lăm rồi. Nay mai chúng ta còn có thể trở lại mà.”
Thủy Tiên liếm môi:
“Có thể không đồng nghĩa với chắc chắn. Sư phụ bảo nếu không tìm thấy nơi sư phụ muốn tìm thì sẽ quay về, nhưng rủi tìm được thì sao?”
Tần Nam Vinh cười thông cảm:
“Giống như Triều Dương là nhà con, Sơn Khởi cũng xem như là nhà của ta, từ lâu ta đã thề rằng sẽ trở lại đó. Con đừng lo, nơi ấy tiên phong lạc cảnh, thích hợp với việc tu tập hơn cả ở đây.”
Thủy Tiên không đáp, chỉ bước vào thư phòng soạn tiếp kinh sách. Tần Nam Vinh hiểu tính nó, nó không thích sự thay đổi. Sinh ra và lớn lên ở Triều Dương, con bé không cần, cũng chẳng hứng thú về nơi nào khác. Lúc Tần Nam Vinh tìm thấy nó, nó đang ngồi co ro ngoài sạp của y. Năm đó đang đỉnh cao nạn đói, y và nhiều hộ dân khác đành phải lên núi bắn chim, bẫy thú rừng để kiếm miếng ăn. Tần Nam Vinh cũng không còn gạo, phải dùng bột pha cháo, một con chim nhỏ xẻ làm bốn phân phát cho mỗi người. Thấy con bé neo đơn côi cút, y đem nó về đạo quán, hỏi ra thì biết cha nó là thương nhân người Bắc Thổ sống ở Triều Dương đã lâu. Sau một trận thương hàn, nó trở thành đứa trẻ mồ côi lay lắt trên đường. Triều Dương mấy năm này đông đúc nạn dân, con bé như cá ra khỏi nước, ngày ngày quẩn quanh ăn xin ở các tụ điểm phát lương.
Phải mất mấy tháng trời Thủy Tiên mới quen dần với cuộc sống trong đạo quán. Nhưng thế là khá hơn Tần Nam Vinh rồi.
Tần Nam Vinh nhìn quanh hoa viên một lượt, tiễn biệt khung cảnh mùa đông lẫn cái đẹp riêng biệt của nó một thể. Mươi ngày qua không hề có lấy ánh nắng mặt trời, ngoại trừ những loài tùng bách vẫn xum xuê, cây cối quanh hoa viên cũng quấn mình trong giấc ngủ đông dài. Ở giữa vườn là hai cây đào Tần Nam Vinh dốc công o bế, chăm sóc nhất hiện giờ cũng trụi lá, có điều mới hôm qua y nghe Linh Chi kêu ầm rằng có mấy búp non vừa trổ.
Mùa xuân sắp tới, chắc Tần Nam Vinh chắc không có dịp nhìn thấy chúng nở hoa. Những năm vừa qua dẫu đói khổ thế nào, y vẫn cố công đảm bảo rằng mấy cành đào vẫn lên tươi tốt, mơn mởn một góc trang viên, xoa dịu lòng dân đen tứ xứ.
Thật là lạ, với một cuộc đời bèo dạt như y, đậu nơi nào nơi đó trở thành nhà, mỗi lần đi đều cảm thấy buồn da diết.
May thay, chia xa Triều Dương không làm Tần Nam Vinh tan nát từng đoạn ruột như ngày trước rời Sơn Khởi. Bão lũ đã qua, trời quang mây tạnh, con dân viễn xứ có thể tự do đi về khắp các nẻo đường đất nước. Mấy ngày qua y thăm viếng những người hàng xóm cũ, không phải ai cũng yên ổn qua thời loạn thế. Nhiều bóng dáng quen thuộc đã không còn trên trần thế vì đói, vì rét hay bệnh tật. Lắm người sớm dời đi nơi khác, như nàng bán kẹo đã theo gia đình vượt núi lên Bắc Thổ từ mười năm trước. Nhưng đôi lúc Tần Nam Vinh gặp lại những gương mặt từng sẻ chia một góc núi với y. Giống như gia đình nàng bán thịt dạo ấy giờ mở hàng vải từ căn nhà nhỏ bé ven thành, mỗi lần ghé thăm lại thấy lũ con chạy giỡn rần rần, lòng y ấm áp như được mặt trời sưởi. Thậm chí y còn hay uống rượu cùng vài tiều phu quen, cái gã năm nào làm y bực bội giờ cũng đã yên bề gia thất, khổ một nỗi cứ gặp y là đăm đăm hỏi khi nào lấy vợ. Y phải nhắc gã bao nhiêu lần y là người tu hành rồi, mấy chuyện đó là không thể.
Tần Nam Vinh quay vào sau hậu viện, liền bắt gặp Trí Minh Tử đang ngồi đánh cờ, uống trà nóng với Linh Chi. Y ái ngại bảo:
“Bẩm sư phụ…”
Trí Minh Tử ngừng tay, râu tóc bạc phơ rung động theo ngữ điệu ôn hòa:
“Lại áy náy gì nữa rồi?”
“Đồ nhi đi rồi, không thể không lo lắng cho sư phụ…”
Trí Minh Tử cười xòa:
“Chừng tháng sau là mấy sư huynh sư đệ lại trở về ấy mà. Vả lại, ta thích gian nhà yên tĩnh thế này hơn.” Rồi ông hạ mắt xuống. “Ước nguyện cả đời, muốn làm thì phải làm thôi. Thế nào? Đã sắm sửa xe thồ đàng hoàng chưa?”
Tần Nam Vinh lí nhí:
“Thưa, xe đã có, chỉ cần tra dầu, kiếm ngựa là đi được.”
Triều Dương đạo quán không phải là lúc nào cũng cô tịch. Lúc Tần Nam Vinh gia nhập, đã có chừng bảy đạo nhân sống tại đây, thêm vài đứa đạo đồng lóc nhóc là trẻ mồ côi. Nhưng tháng qua các sư huynh sư đệ nghe nói trên Cát Lộc Phong có hội tụ linh khí, bèn lên đó tu tập. Tần Nam Vinh vì phải sửa soạn về Sơn Khởi nên không theo, có điều y đi rồi, đạo quán chỉ còn lại Trí Minh Tử chân nhân và lũ nhóc nhỏ tuổi.
Nhớ lại lúc y mới đến Triều Dương, lạ nước lạ cái, kiếm được một gian nhà cùng vài người hàng xóm túm tụm sống. Y lập một tiệm cơm nho nhỏ, làm ăn cũng khấm khá, cho đến khi chiến tranh phương nam trở nên dữ dội, Triều Dương bị tách biệt khỏi phần còn lại của trung nguyên, nạn dân lại ùn ùn kéo tới. Lương thực hiếm hoi, các chủ quán thôi buôn bán, giờ phụ giúp quan công nấu cháo, phát vải cho dân. Tần Nam Vinh hiến chỗ ở của mình, đến trú tại đạo quán của Trí Minh Tử.
Trí Minh Tử chân nhân từ bi bác ái, không ngại xắn tay giúp đỡ người hoạn nạn. Vào những mùa rét đậm, hoa viên ông la liệt lều chõng, bếp ăn làm việc hết công suất. Tần Nam Vinh bận đến không thở ra hơi, một ngày trôi qua trong chộn rộn hoảng loạn, vừa lo hết lương thực vừa sợ không còn củi lửa sưởi ấm cho bao nhiêu nhân mạng vòi või ngoài kia. Thế nhưng đêm xuống, đắp chăn nghe tiếng quạ phương xa, y ngẫm nghĩ về khoảng thời gian vô vi ngày trước, trong tâm lắng lại.
Tần Nam Vinh tìm đến đạo học âu cũng chỉ là một cách để y khuây khỏa giữa bao lầm than đói khổ. Sau đó, tình hình khấm khá lên, các nạn dân từ từ dọn ra khỏi đạo quán, y vẫn ở lại, chính thức bái Trí Minh Tử làm sư phụ.